Hơn 1/4 DN phát hành trái phiếu 'có vấn đề', năng lượng và BĐS đầu bảng

Theo báo cáo mới nhất của FiinRatings, năng lượng và bất động sản là hai nhóm ngành có giá trị trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) có vấn đề lớn nhất trong 5 tháng đầu năm 2024.

Năng lượng đứng đầu nhóm TPDN có vấn đề

Theo báo cáo mới nhất của FiinRatings, giá trị trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) có vấn đề trong 5 tháng đầu năm 2024 ước tính đạt 145.000 tỷ đồng, tương ứng với 14,1% tổng giá trị TPDN lưu hành và 25,8% số lượng tổ chức phát hành tại đầu năm 2024.

Xét theo nhóm ngành, năng lượng là nhóm ngành có tỷ lệ TPDN có vấn đề lớn nhất 42,7%, tiếp đến là bất động sản với 42,5% và thương mại, dịch vụ với 30,1%.

Tính trên giá trị lưu hành, tỷ lệ TPDN có vấn đề chứng kiến suy giảm nhẹ từ 15,4% vào cuối năm 2023 xuống còn 14,1% vào thời điểm 30/5/2024.

Điều này được thể hiện rõ qua tỷ lệ TPDN có vấn đề trong các ngành như năng lượng, bất động sản và thương mại dịch vụ đều giảm, phản ánh phần nào sự phục hồi trong hoạt động kinh doanh, cũng như những nỗ lực cải thiện tình hình tài chính và quản lý rủi ro của các doanh nghiệp, các chuyên gia của FiinRatings nhận định.

Còn tỷ lệ chậm trả trái phiếu, được tính toán lũy kế bao gồm cả những TPDN cơ cấu lại và giãn hoãn kỳ hạn, chiếm 17,8% tổng TPDN lưu hành và 25,8% giá trị TPDN phi ngân hàng lưu hành tại đầu năm 2024. Con số này tương đương giá trị trái phiếu có vấn đề ở mức 215.000 tỷ VND tính đến cuối tháng 5/2024.

So sánh với kết quả xếp hạng tín nhiệm, theo nhận định của Fiin Ratings, hiện chưa doanh nghiệp nào có mức điểm xếp hạng [A] trở lên chậm trả trái phiếu mặc dù một số doanh nghiệp gặp khó khăn nhất định về tình hình đáp ứng nghĩa vụ nợ trái phiếu.

Phần lớn các doanh nghiệp vi phạm nghĩa vụ nợ có mức điểm [BB]-[B] và ở dưới mức điểm đầu tư. Trong đó, có đến 85% số doanh nghiệp sở hữu hồ sơ rủi ro tài chính ở mức Cao đến Rất cao, thể hiện qua việc duy trì mức độ sử dụng đòn bẩy cao hơn trung bình ngành nhiều năm, cũng như sự không tương xứng với dòng tiền hoạt động kinh doanh; dẫn tới khả năng đáp ứng nghĩa vụ nợ có thể không được đảm bảo.

Mối quan hệ giữa điểm XHTN và tỷ lệ chậm trả của các tổ chức phát hành TPDN.  
Mối quan hệ giữa điểm XHTN và tỷ lệ chậm trả của các tổ chức phát hành TPDN.  

Giữa các nhóm ngành có tỷ lệ chậm trả tăng cao, dải điểm của ngành bất động sản, xây dựng và năng lượng phần lớn nằm ở dưới mức điểm đầu tư. Các trái chủ phát hành trong nhóm điểm này thường là doanh nghiệp nhỏ chưa đảm bảo được độ nhận diện trên thị trường cũng như dòng tiền hoạt động ổn định.

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng chịu tác động đáng kể khi phải đối mặt với những diễn biến bất lợi của thị trường trong giai đoạn 2022 - 2023. Nhiều doanh nghiệp trong số đó có khả năng sinh lời và hiệu quả hoạt động thấp do dự án đang gặp vướng mắc pháp lý, trong khi áp lực tài chính tới hạn ở mức cao.

Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp cũng được lập ra với mục đích huy động vốn (SPE), do đó không ghi nhận doanh thu hay dòng tiền hoạt động kinh doanh mà vẫn có dư nợ vay trên bảng cân đối kế toán.

Lãi suất cao nhất lên đến 13%

Các giao dịch trên thị trường thứ cấp của TPDN tại Việt Nam hiện nay chủ yếu tập trung vào 2 ngành chính là ngân hàng và bất động sản, với tổng giá trị giao dịch chiếm gần 70% thị trường. Trong đó, TPDN ngân hàng chiếm 44% tổng giá trị giao dịch.

Đáng chú ý, mức chênh lệch lợi suất hiện nay giữa trái phiếu phi ngân hàng và nhóm ngân hàng đang được nới rộng trong ngắn hạn, ở mức trung bình khoảng 5 - 6% đối với các kỳ hạn dưới 24 tháng.

Với nhóm ngân hàng, lợi suất đáo hạn của trái phiếu giao động bình quân ở mức 6,5% - 8,5% tùy theo kỳ hạn còn lại và mức độ điểm xếp hạng tín nhiệm.

Nhóm các ngân hàng lớn với mức điểm [AAA] - [AA] thường phát hành TPDN với lợi suất đáo hạn 6,5% -6,9%, tức chênh lệch khoảng 1,5% so với lãi suất tiền gửi kỳ hạn 12 tháng. Đây thường nhà nhóm ngân hàng có khả năng huy động vốn vượt trội, cùng mô hình kinh doanh bao gồm các nguồn thu đa dạng bên cạnh hoạt động tín dụng.

Nhóm các ngân hàng thương mại tư nhân xếp từ nhóm [A] đến [BBB] phát hành TPDN với lợi suất đáo hạn trung bình khoảng 7,2% - 7,5%, hay chênh lệch khoảng 2,0 – 2,5% so với lãi suất tiền gửi kỳ hạn 12 tháng.

Còn lại, nhóm ngân hàng với mức điểm [BB] và thấp hơn phát hành TPDN với trung bình khoảng 8,0% - 9,0%, hay chênh lệch khoảng 2,5% so với lãi suất tiền gửi kỳ hạn 12 tháng. Đây thường là nhóm ngân hàng tư nhân có quy mô và khả năng huy động vốn khiêm tốn hơn, với hoạt động kinh doanh xoay quanh hoạt động tín dụng.

Lợi suất đáo hạn của các nhóm ngành.  
Lợi suất đáo hạn của các nhóm ngành.  

Với nhóm phi ngân hàng, lợi suất đáo hạn của TPDN phi ngân hàng cao hơn khoảng từ 5 - 6% so với tiền gửi tiết kiệm 12 tháng tùy theo kỳ hạn, do thường có tính thanh khoản và mức xếp hạng tín nhiệm thông thường ở mức thấp hơn.

Đồng thời, nhóm phi ngân hàng cũng có sự phân hóa rất lớn về chênh lệch lợi suất giữa trái phiếu bất động sản và các ngành khác. Mức lợi suất đáo hạn phổ biến đang được giao dịch rơi vào khoảng 10 - 11% với các doanh nghiệp bất động sản, và 11 - 13% với các doanh nghiệp ngành Năng lượng. Mức lợi suất đáo hạn này tương ứng với cao hơn khoảng 4 - 6% so với lợi suất của các trái phiếu ngân hàng. Nhóm ngành Sản xuất có lợi suất đáo hạn thấp hơn hai ngành trên, dao động từ 8,5-10%.

Đáng chú ý, sau giai đoạn thị trường TPDN có nhiều biến động mạnh vào cuối năm 2022, có những giao dịch trái phiếu của các doanh nghiệp đang gặp khó khăn về tài chính đã có lợi suất đáo hạn rất cao, dao động trong khoảng 20 - 30%, thậm chí lên hơn 50% trong một vài trường hợp đặc biệt.

Các giao dịch này chủ yếu xảy ra tại các trái phiếu bất động sản với thanh khoản nhỏ (dưới 100 tỷ) trong khoảng giai đoạn cuối năm 2023 – đầu năm 2024 do các doanh nghiệp chưa có điều kiện thu xếp tài chính để trả nợ hoặc mua lại trái phiếu cũng như dưới áp lực cắt lỗ từ một số nhà đầu tư.

Khánh Tú

Theo VietnamFinance