'Một tiền đề và ba điều kiện' để huy động 170 tỷ USD trái phiếu DN
Sau những lùm xùm vừa qua, thị trường TPDN vẫn đang đi ngang. Để thị trường thực sự phát triển theo đúng tiềm năng, ông Trần Lê Minh, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Xếp hạng tín nhiệm đầu tư Việt Nam VIS Rating cho rằng cần phải thực hiện được một tiền đề và ba điều kiện.
Thị trường TPDN vẫn “bò ngang”
Theo dữ liệu của Hiệp hội Thị trường Trái phiếu Việt Nam (VBMA), có tổng cộng 13 đợt phát hành trái phiếu doanh nghiệp (TPND) riêng lẻ với trị giá 13.940 tỷ đồng trong tháng 4/2024. Đồng thời, các doanh nghiệp đã mua lại 12.001 tỷ đồng trái phiếu trước hạn, giảm 19% so với cùng kỳ năm 2023.
Lũy kế từ đầu năm đến nay, có 31 đợt phát hành riêng lẻ với trị giá 29.050 tỷ đồng và 6 đợt phát hành ra công chúng với trị giá 8.878 tỷ đồng. Trong số các đợt phát hành riêng lẻ, các trái phiếu đã được xếp hạng tín nhiệm chiếm 7,5% giá trị.
Trong thời gian qua, thị trường TPDN đã trở thành kênh huy động vốn hiệu quả trong trung và dài hạn đối với doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp đảm bảo hài hòa nguồn vốn, giảm sự phụ thuộc vốn quá lớn vào kênh tín dụng ngân hàng.
Tuy nhiên, phát biểu tại Hội thảo “Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp tới 2030: Góc nhìn từ xếp hạng tín nhiệm”, GS.TS Hoàng Văn Cường, Ủy viên Ủy ban Tài chính – Ngân sách Quốc hội, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam cho rằng rất khó để có thể đạt được mục tiêu nâng dư nợ TPDN lên tối thiểu 25% GDP vào năm 2030.
“Mặc dù trái phiếu là kênh huy động vốn dài hạn cho doanh nghiệp nhưng với mục tiêu nâng dư nợ TPDN đạt tối thiểu khoảng 20% GDP đến năm 2025 khó thực hiện. Đến năm 2030, mục tiêu dư nợ trái phiếu doanh nghiệp đạt được 25% cũng rất khó", ông nói.
Lý giải về nhận định này, ông Cường cho hay, sau giai đoạn bùng nổ 2018 – 2021, thị trường TPDN lao dốc và hiện vẫn “bò ngang”. Tỷ lệ dư nợ cũng giảm từ 16% GDP xuống còn khoảng 11% GDP vào năm 2022. Nếu so với tổng vốn huy động, quy mô trái phiếu thậm chí còn nhỏ hơn nữa, ông nói.
Đồng quan điểm, ông Trần Lê Minh, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Xếp hạng tín nhiệm đầu tư Việt Nam VIS Rating chỉ ra, nếu Việt Nam chỉ tăng trưởng GDP tốc độ bình quân 5,5 - 6% trong 8 năm tới thì quy mô thị trường TPDN sẽ rơi vào khoảng 160 - 170 tỷ USD, tức tăng 3,5 lần so với quy mô hiện tại.
“Điều này đồng nghĩa với thị trường TPDN của Việt Nam sẽ tương đương với Malaysia khi đó. Đồng thời, bình quân 8 năm tới, Việt Nam phải phát hành mới khoảng 370.000 tỷ trái phiếu/năm, tương đương với mức phát hành năm 2020 - năm đỉnh cao trước khi những vụ lùm xùm xảy ra”, Tổng Giám đốc VIS Rating cho biết.
Một tiền đề và ba điều kiện để thị trường TPDN phát triển
Theo ông Trần Lê Minh, để thị trường trái phiếu Việt Nam đạt được mục tiêu đề ra thì cần phải thực hiện được “một tiền đề và ba điều kiện”.
Tổng Giám đốc VIS Rating cho hay tiền đề tiên quyết để phát triển thị trường TPDN chính là ở sự minh bạch. “Nếu không minh bạch thị trường sẽ không thể và không bao giờ phát triển được”, ông nói.
Sau tiền đề là sự minh bạch, điều kiện cần thứ nhất là phải có thông tin mức độ rủi ro trái phiếu bán trên thị trường, bao gồm mức độ rủi ro của tổ chức phát hành, khả năng trả nợ. Đồng thời, phải có thông tin đầy đủ về rủi ro của tổ chức phát hành được một bên độc lập cung cấp.
Tiếp đến là tham chiếu đơn giản phổ biến để nhà đầu tư dựa vào đó để biết trái phiếu đang được giao dịch mức giá thế nào, hay còn gọi là đường cong lãi suất trái phiếu doanh nghiệp. “Điều này giúp các nhà đầu tư tránh tình trạng dò dẫm, không biết giá nào đúng để đặt lệnh giao dịch”, ông Minh cho hay.
Cuối cùng là phải thay đổi cơ cấu nhà đầu tư. Theo thống kê của VIS Rating, nhà đầu tư cá nhân đang chiếm tỷ lệ sở hữu trái phiếu doanh nghiệp cao, tương đương 33% tổng giá trị TPDN đang lưu hành (tính đến cuối năm 2023).
Như vậy, cơ cấu nhà đầu tư trên thị trường TPDN Việt Nam đang đi ngược lại với các thị trường phát TPDN khác, nơi việc phát hành kỳ hạn dài được nắm giữ bởi các nhà đầu tư là tổ chức. “Khi làm được tốt điều kiện 1 và 2, điều kiện 3 sẽ tự đến. Thị trường trái phiếu cũng sẽ phát triển về chất lượng và số lượng tốt hơn so với giai đoạn trước”, ông Minh nhận định.
Trong khi đó, TS Chử Văn Lâm cho rằng để đạt mục tiêu tăng quy mô của thị trường trái phiếu lên mức tối thiểu 25% GDP vào năm 2030 thì cần phải có những cơ chế thu hút đầu tư dài hạn thực sự hấp dẫn.
Trong số đó, các doanh nghiệp nên xem xét sử dụng dịch vụ kiểm toán, xếp hạng tín nhiệm, định giá tài sản, để đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh, tài chính của doanh nghiệp.
“Từ đó, tính công khai minh bạch sẽ được tăng cường và từng bước thúc đẩy phát hành trái phiếu huy động vốn, để thị trường này tiếp tục là kênh dẫn vốn quan trọng cho doanh nghiệp”, TS Chử Văn Lâm nói.