'Thị trường vốn năm 2025 sẽ có những chuyển biến tích cực'
Sáng nay (6/12), Hiệp hội Tư vấn Tài chính Việt Nam phối hợp với Tạp chí Đầu tư Tài chính – VietnamFinance tổ chức hội thảo “Toàn cảnh thị trường vốn năm 2024 và triển vọng năm 2025” với chủ đề: “Phát triển bền vững thị trường vốn Việt Nam – Thực trạng và giải pháp”.
Hội thảo nhằm đánh giá toàn diện hoạt động thị trường vốn trong năm 2024, định hướng giải pháp phát triển cho năm 2025 và xa hơn. Đây là diễn đàn để các chuyên gia, nhà quản lý, doanh nghiệp và nhà đầu tư cùng trao đổi, thảo luận về những vấn đề cốt lõi và định hình tương lai của thị trường vốn Việt Nam.
Theo đánh giá của các chuyên gia, thời gian qua, thị trường vốn Việt Nam đã dịch chuyển theo hướng ngày càng cân đối, hài hòa và bền vững hơn, song còn tiềm ẩn nhiều thách thức.
Để thị trường vốn Việt Nam thực sự trở thành một kênh huy động vốn hiệu quả và bền vững, việc nâng cao hơn nữa chất lượng hàng hóa trên thị trường chứng khoán Việt Nam là một hướng đi quan trọng.
Cùng với đó, cần có cơ chế khuyến khích cho trái phiếu xanh, xã hội, bền vững, đồng thời cho phép các định chế tài chính tham gia sâu hơn vào thị trường trái phiếu doanh nghiệp dựa trên khung quản trị đầu tư dựa trên rủi ro. Song song với đó là cần nâng cao dân trí tài chính toàn diện, phát triển có lộ trình nghề tư vấn tài chính tại Việt Nam.
Hội thảo có sự tham dự của các lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng và Nhà nước: ông Phùng Quốc Hiển (nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Phó Chủ tịch Quốc hội), PGS.TS Vũ Văn Phúc (Phó Chủ tịch Hội đồng Khoa học các cơ quan Đảng trung ương, nguyên Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản), PGS.TS Nguyễn Văn Thạo (nguyên Phó Chánh Văn phòng Trung ương Đảng, nguyên Trợ lý Chủ tịch nước), PGS.TS Lê Bộ Lĩnh (nguyên Phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội), PGS.TS Trần Quốc Toản (nguyên Phó chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ); TS Lê Xuân Nghĩa (Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính tiền tệ Quốc gia);
Các chuyên gia kinh tế: TS Võ Trí Thành (Viện trưởng Viện nghiên cứu chiến lược thương hiệu và cạnh tranh), PGS.TS Đinh Trọng Thịnh (chuyên gia kinh tế, giảng viên cao cấp tại Học viện Tài chính), PGS.TS. Ngô Trí Long (nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu thị trường giá cả - Bộ Tài chính), TS Ngô Công Thành (Phó chủ tịch Liên chi hội Tài chính Khu công nghiệp Việt Nam), TS Nguyễn Tú Anh (Giám đốc Trung tâm Thông tin, phân tích và dự báo kinh tế, Ban Kinh tế Trung ương); bà Tạ Thanh Bình (Tổng giám đốc Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam - VSDC), ông Tô Trần Hòa (Phó vụ trưởng Vụ phát triển thị trường, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước);
Các lãnh đạo doanh nghiệp: ông Nguyễn Quang Thuân (Chủ tịch Công ty Cổ phần Fiingroup), ông Nguyễn Khắc Hải (Giám đốc Khối phụ trách Luật và Kiểm soát tuân thủ, Công ty Chứng khoán SSI), ông Phạm Lưu Hưng (Kinh tế trưởng kiêm Trưởng Ban Đào tạo và Phát triển, Công ty Chứng khoán SSI), ông Ngô Thành Huấn (Giám đốc điều hành Công ty Cổ phần FIDT), TS Hồ Sỹ Hoà (Giám đốc Nghiên cứu và Tư vấn đầu tư, Công ty Chứng khoán DNSE).
Về phía Hiệp hội Tư vấn Tài chính Việt Nam (VFCA), có sự tham dự của TS Lê Minh Nghĩa, Chủ tịch Hiệp hội; Th.S Lê Long Giang, Phó chủ tịch Hiệp hội; ông Hoàng Anh Minh, Phó chủ tịch Hiệp hội, Tổng biên tập Tạp chí Đầu tư Tài chính - VietnamFinance; PGS.TS Nghiêm Thị Thà, Tổng thư kí Hiệp hội.
TS Lê Minh Nghĩa: Thị trường vốn ngày càng cân đối, hài hoà, bền vững
Phát biểu khai mạc hội thảo, TS Lê Minh Nghĩa, Chủ tịch VFCA, đánh giá thị trường vốn là cấu phần quan trọng của thị trường tài chính - nơi cung ứng nguồn vốn trung hạn và dài hạn, góp phần huy động, phân bổ hiệu quả các nguồn lực, tạo nền tảng vật chất thiết yếu để nền kinh tế quốc gia tăng trưởng. Trong bối cảnh hướng tới kỷ nguyên vươn mình phát triển bứt phá, thị trường vốn còn là động lực để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phát triển bền vững, nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế.
Những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều nỗ lực để đưa thị trường vốn tiến lên phía trước. Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 15/1/2019 của Bộ Chính trị về nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác, sử dụng và phát huy các nguồn lực của nền kinh tế đã chỉ rõ: “…tập trung phát triển thị trường vốn trong nước theo hướng đa dạng hoá công cụ nợ và nhà đầu tư, thu hút các nhà đầu tư nước ngoài”.
Nghị quyết số 31/2021/QH15 đã đặt ra những mục tiêu đầy tham vọng cho thị trường vốn với định hướng đến năm 2025, quy mô vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt tối thiểu 85% GDP, dư nợ thị trường trái phiếu đạt tối thiểu 47% GDP, trong đó dư nợ thị trường trái phiếu doanh nghiệp đạt khoảng 20% GDP....
Thời gian qua, dù đối mặt với nhiều biến cố khó lường, nhưng thị trường vốn Việt Nam đã dịch chuyển theo hướng ngày càng cân đối, hài hòa và bền vững hơn: giảm dần sự phụ thuộc vào nguồn vốn tín dụng, tăng tỷ trọng nguồn vốn huy động từ thị trường chứng khoán. Tính đến hết tháng 6/2024, vốn hóa thị trường chứng khoán đã đạt hơn 7.066 nghìn tỷ đồng, tương đương 69,1% GDP ước tính năm 2023. Số lượng tài khoản chứng khoán của nhà đầu tư tiếp tục tăng trưởng, đạt hơn 8,6 triệu tài khoản. Đặc biệt, ngày 29/11/2024, Quốc hội thông qua Luật Chứng khoán sửa đổi, bổ sung cùng với 8 luật đi kèm liên quan đến lĩnh vực tài chính là bước tiến quan trọng thúc đẩy thị trường vốn phát triển.
Tuy nhiên, bên cạnh sự phát triển ấn tượng thời gian qua, thị trường vốn Việt Nam hiện nay còn tiềm ẩn nhiều thách thức cần được giải quyết. Cơ cấu trái phiếu doanh nghiệp còn kém bền vững, chủ yếu được phát hành bởi nhóm ngân hàng và bất động sản. Thị trường cổ phiếu biến động nhất trong khu vực, vẫn còn cách xa các chỉ tiêu đề ra cả về chất và lượng. Thị trường bảo hiểm trong 2 năm vừa qua, có tốc độ tăng trưởng thấp kỷ lục. Trên thị trường tín dụng ngân hàng, áp lực nợ xấu đang gia tăng trong khi bộ đệm dự phòng của không ít nhà băng đang mỏng dần, cho thấy những yếu tố rủi ro đang tiềm ẩn. Quy mô thị trường vẫn còn khá nhỏ so với các nước trong khu vực; các sản phẩm còn ít, chưa đa dạng; tính minh bạch, chuyên nghiệp chưa cao, chế tài chưa đủ sức răn đe; hạn chế về hạ tầng công nghệ, niềm tin của nhà đầu tư trong nước và nước ngoài vào thị trường vốn chưa thực sự hồi phục, nền tảng nhà đầu tư chưa bền vững...
Vì vậy, VFCA và Tạp chí Đầu tư Tài chính tổ chức hội thảo để làm rõ các khía cạnh nổi bật như: Những tác động đến thị trường vốn của Luật Chứng khoán sửa đổi cùng với 8 luật khác vừa được Quốc hội thông qua; các điểm nghẽn và giải pháp để nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam; cơ hội và thách thức đối với nhà đầu tư; giải pháp dẫn vốn bền vững vào các lĩnh vực ưu tiên trong kỷ nguyên mới như: kinh tế xanh, kinh tế số, đổi mới sáng tạo, phát triển bền vững; các giải pháp nâng cao tính minh bạch của thị trường vốn Việt Nam, tiệm cận với thông lệ quốc tế, thu hút các nhà đầu tư tổ chức, tăng cường bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư cá nhân…
“Chúng tôi tin tưởng hội thảo sẽ mang đến nhiều sáng kiến góp phần đưa thị trường vốn Việt Nam tiến gần hơn tới mục tiêu trở thành một thị trường minh bạch, hiệu quả, và bền vững, đóng góp tích cực vào sự thịnh vượng của quốc gia”, TS Lê Minh Nghĩa nói.
PGS.TS Đinh Trọng Thịnh: Tín dụng 2025 có thể tăng 13% - 17%
Trình bày tham luận "Tổng quan tình hình kinh tế vĩ mô và thị trường vốn năm 2024, triển vọng năm 2025", PGS.TS Đinh Trọng Thịnh (giảng viên cao cấp Học viện Tài chính) cho biết, năm 2024, tăng trưởng GDP của Việt Nam khá tốt: quý I tăng 5,66%, quý tăng 6,93%, quý III tăng 7,4, tính chung 9 tháng tăng 6,84%. Tháng 10 - 11, đà tăng trưởng GDP được đánh giá tốt hơn. Đây là tốc độ tăng trưởng cao nhất kể từ quý III/2022, khi các hoạt động kinh tế đã phục hồi mạnh mẽ từ mức đáy của đại dịch.
Về xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 335,59 tỷ USD, tăng 15,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 93,97 tỷ USD, tăng 20,7%, chiếm 28,0% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 241,62 tỷ USD, tăng 12,8%, chiếm 72, %.
Về nhập khẩu, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước đạt 312,28 tỷ USD, tăng 16,8 % so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 113,58 tỷ USD, tăng 18,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 198,7 tỷ USD, tăng 15,8%.
Cán cân thương mại hàng hóa ước tính xuất siêu 23,31 tỷ USD (cùng kỳ năm trước xuất siêu 24,8 tỷ USD). Trong đó, khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 19,61 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 42,92 tỷ USD.
Về thị trường cổ phiếu, tính đến cuối tháng 8/2024, giá trị vốn hóa đạt hơn 7 triệu tỷ đồng (280 tỷ USD), tăng 19,1% so với cuối năm 2023, tương đương 69,2% GDP ước tính năm 2023.
Tính từ đầu năm 2024 tới nay, giá trị giao dịch bình quân đạt gần 1 tỷ USD, tăng 31,3% so với bình quân năm trước. Thị trường hiện có 728 cổ phiếu niêm yết và 878 cổ phiếu trên UPCoM, với tổng giá trị niêm yết đạt 2.246 nghìn tỷ đồng, tăng 5,5% so với cuối năm 2023.
Các nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ khoảng 50 tỷ USD giá trị cổ phiếu, tương đương hơn 17% vốn hóa thị trường. Những kết quả này chứng minh sự phát triển mạnh mẽ của thị trường chứng khoán Việt Nam.
Về thị trường tín dụng, năm 2024, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) định hướng mức tăng trưởng tín dụng khoảng 15%, có điều chỉnh phù hợp với diễn biến, tình hình thực tế. NHNN đã giao toàn bộ chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2024 cho các TCTD và thông báo công khai (ngày 31/12/2023) nguyên tắc xác định để TCTD chủ động thực hiện tăng trưởng tín dụng.
Trong bối cảnh tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống vẫn còn thấp, NHNN chủ động điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho các TCTD. Bên cạnh đó, NHNN yêu cầu các TCTD thực hiện nghiêm túc các chỉ đạo về hoạt động tiền tệ, tín dụng, các quy định về cấp tín dụng của NHNN nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh, bảo đảm an toàn hệ thống và ổn định thị trường tiền tệ; Tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, lành mạnh, hạn chế nợ xấu gia tăng và phát sinh, đảm bảo an toàn hoạt động của TCTD; hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất, lĩnh vực ưu tiên, lĩnh vực là động lực tăng trưởng kinh tế; kiểm soát chặt chẽ đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro.
PGS.TS Đinh Trọng Thịnh dự báo với đà tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ của năm 2025, sự trì trệ trong phục hồi của thị trường BĐS, khả năng tăng trưởng chưa thực sự rõ nét của thị trường chứng khoán và thị trường trái phiếu, tín dụng có thể tăng trưởng ở mức 13-17%.
TS Nguyễn Tú Anh: Cần đa dạng hóa thị trường vốn thay vì chỉ dựa vào ngân hàng
Theo TS Nguyễn Tú Anh - Giám đốc Trung tâm Thông tin, phân tích và dự báo kinh tế, Ban Kinh tế Trung ương - vốn đầu tư đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế. Tuy nhiên, mức độ đầu tư của Việt Nam đang thấp nên quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng chưa cao.
Để thực hiện hóa được mục tiêu Net Zero và thích ứng biến đổi khí hậu, Việt Nam cần nguồn vốn lên tới 701 tỷ USD, trong đó, con số này ở khu vực tư nhân là 350 tỷ USD, khu vực nhà nước là 248 tỷ USD và vốn nước ngoài là 103 tỷ USD.
Tuy nhiên, theo ông Tú Anh, chúng ta đang phải đối mặt với nhiều thách thức mới có thể đạt được mục tiêu đề ra. Một trong những thách thức lớn nhất là nền kinh tế Việt Nam hiện vẫn phụ thuộc lớn vào ngân hàng. Việc “dựa dẫm” quá nhiều vào nguồn vốn tín dụng có thể gây ra nhiều rủi ro lớn khi sức khỏe của hệ thống ngành ngân hàng đang có nhiều tín hiệu báo động, chẳng hạn như rủi ro nợ xấu tăng cao.
Bên cạnh đó, tín dụng trên đầu người cao hơn rất nhiều so với GDP bình quân đầu người. “Điều này cho thấy sự thiếu liên kết giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng GDP. Phải chăng lượng vốn tín dụng thực sự đi vào nền kinh tế không phải là con số lớn như thống kê chỉ ra?” ông Tú Anh trăn trở.
Trong khi đó, thị trường TPDN – kênh huy động vốn trung và dài hạn - lại chỉ có sự tham gia chủ yếu của các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp bất động sản. Thiếu hụt sự đa dạng về kênh huy động vốn khiến nhiều doanh nghiệp Việt khó tiếp cận nguồn vốn. Không chỉ doanh nghiệp nhỏ và vừa mà ngay cả các doanh nghiệp trung bình cũng gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận vốn. Điều này cũng khiến nhiều doanh nghiệp không thể “lớn”, ảnh hưởng đến sự phát triển chung của nền kinh tế. Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển mới với những kế hoạch lớn như phát triển điện hạt nhân, đường sắt cao tốc Bắc – Nam.
Để đạt được những mục tiêu đề ra, theo ông Tú Anh, chúng cần phải đẩy mạnh đầu tư và nâng cao chất lượng đầu tư bằng cách đa dạng hóa các kênh huy động vốn. “Một nền kinh tế phát triển không thể dựa mãi vào ngân hàng. Chúng ta phải phát triển những thị trường vốn then chốt khác, trong đó có thị trường trái phiếu và chứng khoán. Khi thị trường vốn phát triển, đa dạng hóa hơn, nền kinh tế cũng sẽ có những khởi sắc mới”, ông khẳng định.
Bà Tạ Thanh Bình: Non-prefunding được vận hành an toàn, đã mở hành lang pháp lý để triển khai CCP
Chia sẻ thông tin về tiến trình nâng hạng thị trường chứng khoán (TTCK), TS Tạ Thanh Bình - Tổng giám đốc Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam (VSDC) cho hay, trong một buổi làm việc mới đây cùng đại diện FTSE Russell, đơn vị xếp hạng thị trường này đã khẳng định rằng Việt Nam đã đáp ứng được 7/9 tiêu chí nâng hạng.
Hai tiêu chí cần cải thiện bao gồm là việc gỡ bỏ yêu cầu bắt buộc nhà đầu tư nước ngoài phải ký quỹ trước khi giao dịch (prefunding) và xử lý giao dịch không thành công (failed trade management).
Đối với tiêu chí non-prefunding, bà Bình cho hay, UBCKNN đã phối hợp với các thành viên thị trường nỗ lực cải cách. Mới đây, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư 68, với nội dung quan trọng là bỏ yêu cầu bắt buộc ký quỹ đối với nhà đầu tư nước ngoài.
Những thông tin trên cho thấy công tác triển khai Thông tư 68 cho đến này đã được VSDC và các bên liên quan thực hiện khá tốt, không để xảy ra trường hợp NĐTNN thiếu tiền dẫn đến phải chuyển nghĩa vụ thanh toán cũng như ảnh hưởng đến hoạt động thanh toán của thị trường. Việc cung cấp dịch vụ, quản lý rủi ro giao dịch NPF của CTCK, NHLK cũng như việc sử dụng cơ chế giao dịch NPF của NĐTNN về cơ bản được thực hiện theo hướng thận trọng, an toàn.
Với tiêu chí cuối cùng để nâng hạng là xử lý giao dịch không thành công (failed trade management), theo bà Tạ Thanh Bình, giải pháp áp dụng cơ chế thanh toán bù trừ trung tâm (CPP).
Liên quan đến vấn đề này, các quy định mới trong Luật Chứng khoán vừa được thông qua đã mở đường cho ngành chứng khoán tiếp tục triển khai các giải pháp nâng hạng theo tiêu chuẩn MSCI (khó đáp ứng hơn tiêu chuẩn của FTSE Russell).
“Trong phạm vi chức năng và nhiệm vụ của VSDC, với định hướng đảm bảo sự ổn định của các khuôn khổ thể chế, một trong các công tác chiến lược VSDC cần thực hiện là việc thiết lập công ty con có chức năng đối tác bù trừ trung tâm (CCP) cho thị trường chứng khoán cơ sở”, TS Tạ Thanh Bình cho hay.
Tổng giám đốc VSDC cũng nói thêm, trong quý III & IV/2024, cơ quan này đã tích cực tham gia góp ý, đề xuất bổ sung, chỉnh sửa Luật Chứng khoán và Nghị định 155 để chuẩn bị hướng tới thành lập công ty con thực hiện chức năng đối tác bù trừ trung tâm (CCP) cho thị trường chứng khoán cơ sở. Đây là một bước đi cần thiết cho việc quản lý rủi ro thanh toán tổng thể thị trường và tiếp tục hướng tới các tiêu chí nâng hạng cho TTCK Việt Nam trong tương lai. Ngoài ra, quy định công bố thông tin tiếng Anh và việc áp dụng đồng bộ theo lộ trình sẽ từng bước cải thiện tiêu chí minh bạch.
Bên cạnh FTSE, Việt Nam cũng theo đuổi mục tiêu nâng hạng thị trường theo tiêu chuẩn của MSCI. Đối với bộ tiêu chí của MSCI Global, tới tháng 6/2024 vừa qua, TTCK Việt Nam đã đáp ứng 10/18 tiêu chí. “Có thể kể đến một số tiêu chí còn cần cải thiện như mức giới hạn sở hữu nước ngoài (Foreign Ownership Limit Level), mức sở hữu nước ngoài còn lại (Foreign Room Level) và hay mức độ tự do hóa của thị trường hối đoái chưa đáp ứng… Khối lượng công việc cần triển khai không hề đơn giản”, TS Tạ Thanh Bình cho biết.
TS Tạ Thanh Bình khẳng định, với những cải cách về thể chế, thị trường sẽ đón nhận dòng vốn lớn đổ về. Tuy nhiên, điều này cũng đặt ra vấn đề về sức ép lên hệ thống với khối lượng, giá trị giao dịch lớn, tần suất giao dịch nhanh hơn. Trường hợp nâng hạng lên thị trường mới nổi, TTCK Việt Nam dự kiến sẽ đón nhận một dòng vốn đầu tư lớn vào khối thị trường mới nổi. Dòng vốn này có thể mang tới khối lượng giao dịch có giá trị lớn, với tần suất giao dịch có thể thường xuyên và liên tục hơn, có thể gây ra áp lực không nhỏ đối với hệ thống giao dịch và hệ thống bù trừ, thanh toán. Bên cạnh đó là các vấn đề liên quan đến chuyển đổi ngoại tệ có đủ sức đáp ứng lượng giao dịch lớn nhưu vậy hay không.
TS Tạ Thanh Bình cũng nói thêm, áp lực duy trì nâng hạng khi đã đạt tiêu chí xếp hạng mới cũng sẽ là một thách thức đối với các bên liên quan. “Theo trao đổi từ phía FTSE Russell, các bộ điều kiện xếp hạng hoàn toàn có thể thay đổi khi cần thiết, khi có nhu cầu từ phía khách hàng lớn. Như vậy việc tiến tới xếp hạng, được xếp hạng và sau đó là duy trì xếp hạng sẽ phụ thuộc rất nhiều vào kỳ đánh giá hàng năm của các tổ chức quốc tế. Trường hợp các điều kiện ngày một thay đổi nhanh và nhiều, chúng tôi cần sẵn sàng cho việc kiến nghị thay đổi các quy định pháp lý phù hợp hơn, đồng thời kịp chỉnh sửa, bổ sung về mặt hệ thống khi cần thiết”, Tổng giám đốc VSDC khẳng định.
Theo TS Tạ Thanh Bình, rất nhiều thị trường chứng khoán đang cùng lúc có nhiều biến động lớn, chẳng hạn nhưu thị trường chứng khoán Pakistan đang ở mức thị trường mới nổi đã bị xem xét đưa xuống thị trường cận biên, đồng thời gặp phải biến động chính trị nội bộ. “Đây chính là những thách thức thực tế mà chúng ta cần phải đối mặt và đưa ra kịch bản để giải quyết”, bà nhấn mạnh.
Ông Tô Trần Hoà: Thị trường chứng khoán tiếp tục xu hướng phục hồi tích cực
Phát biểu tại hội thảo hôm nay, ông Tô Trần Hoà, Vụ trưởng Vụ phát triển Thị trường, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, đã điểm lại tình hình thị trường chứng khoán và điểm nhấn chính sách 2025.
Theo đó, ông Hoà cho biết trong năm 2024 để nền kinh tế không chịu ảnh hưởng từ những biến động bên ngoài, đồng thời đảm bảo phát triển và phục hồi kinh tế, các chính sách tài khoá đã được chính phủ ban hành và triển khai một cách đồng bộ, hiệu quả. Điều này giúp doanh nghiệp vượt qua khó khăn, đảm bảo an nịnh xã hội.
Với kết quả kinh tế vĩ mô nêu trên, ông Hoà khẳng định hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2024 đã có nhiều điểm khởi sắc. “Trong 11 tháng vừa qua, thị trường cổ phiếu, chứng chỉ quỹ trải qua nhiều phiên tăng giảm đan xen nhưng về cơ bản vẫn thị trường vẫn tiếp tục xu hướng phục hồi tích cực trên nền thị trường năm 2023”, ông Hoà khẳng định.
Để có được kết quả nêu trên, theo ông Hoà, Chính phủ, Bộ Tài chính và Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước đã tích cực triển khai nhiêu giải pháp nhằm tạo thuận lợi cũng như gỡ bỏ những rào cản cho nhà đầu tư nước ngoài tiếp cận TTCK thông qua việc khẩn trương sửa đổi các quy định pháp luật có liên quan.
Theo đó, ngày 18/9/2024, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư 68/2024/TT-BTC sửa đôi, bổ sung một sô điêu của các Thông tư quy định về giao dịch chứng khoán trên hệ thống giao dịch chứng khoán; bù trừ và thanh toán giao dịch chứng khoán; hoạt động của công ty chứng khoán. Thông tư sô 68/2024/TT-BTC đã bổ sung quy định về giao dịch mua cô phiếu không yêu câu có đủ tiền khi đặt lệnh của nhà đầu tư nước ngoài là tổ chức và đề ra lộ trình triển khai công bố thông tin bằng tiếng Việt đồng thời bằng tiếng Anh.
Theo ông Hoà, đây là căn cứ pháp luật nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường chứng khoán Việt Nam với chi phí thấp hơn nhưng lại giảm thiểu các rủi với các nhà đầu tư.
Thông tin thêm, ông Hoà cho biết mới đây ngày 29/11/2024, Quốc hội thông qua Luật Chứng khoán. Luật Chứng khoán sửa đổi tập trung vào 3 nhóm chính sách là: nâng cao tính minh bạch, hiệu quả trong hoạt động phát, tiếp tục hoàn thiện các quy định để tăng cường công tác giám sát và xử lý nghiêm các hành vì gian lận, lừa đảo trong hoạt động phát hành. “Đây là những quy định thúc đẩy trách nhiệm của tổ chức, cá nhân có liên quan nhằm đảm bảo nhằm thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán”, ông Hoà nói.
Cùng với Luật Chứng khoán, ông Hòa cho biết có hàng văn bản hướng dẫn thi hành khác cũng đang được Bộ Tài chính trình Chính sửa đổi, bổ sung như Nghị định số 155/2020/NĐ-CP, Nghị định sửa đổi, bồ cm một số điều của Nghị định số 156/2020/NĐ-CP, Nghị định số 128/2021/NĐ-CP và 04 Thông tư hướng dẫn liên quan…
Bước sang năm 2025 nhằm đảm bảo sự vận hành liên tục, thông suốt, ổn định, minh bạch của thị trường chứng khoán, ông Hoà cho biết Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước sẽ tiếp tục tục ưu tiên tập trung vào các giải pháp để hoàn thành mục tiêu sớm nâng hạng thị trường chứng khoán. Đồng thời, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước sẽ tiếp tục triên khai các giải pháp đã đề ra tại Chương trình hành động thực hiện Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán đến năm 2030, trong đó có một số điểm chính trong định hướng chính sách như sau:
Thứ nhất, về nâng hạng thị trường, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các biện pháp để nâng hạng thị trường chứng khoán nhằm thu hút các dòng vốn lớn, nâng cao chât lượng thị trường, duy trì tăng trưởng về quy mô; tiếp tục tuyên truyền rộng rãi đến thành viên thị trường, công chúng đầu tư nội dung của Thông tư sô 68/2024/TT-BTC đảm bảo hiệu quả, an toàn, an ninh thị trường.
Thứ hai, tiếp tục tăng cường phối hợp với các bộ, ngành trong việc xem xét sửa đổi quy định pháp lý đề tạo điêu kiện thuận lợi cho hoạt động đâu tư của nhà đầu tư nước ngoài tại thị trường Việt Nam; tăng cường phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong việc xem xét sửa đổi quy định pháp lý liên quan đến giảm thủ tục và rút ngắn thời gian mở tài khoản, tạo điều kiện cho hoạt động đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài tại tiếp tục tham gia vào thị trường chứng khoán Việt Nam.
Cũng theo ông Hoà, mặc dù, có nhiều cơ sở để lạc quan về sự phát triển và cơ hội nâng hạng của thị trường chứng khoán Việt Nam, nhưng chúng ta cũng luôn phải lưu tâm rằng kinh tê Việt Nam vẫn còn nhiều rủi ro, thách thức như kinh tế toàn cầu còn chứa đựng nhiêu yêu tố khó lường, nhất là tăng trưởng của những đối tác thương mại lớn của Việt Nam.
Bên cạnh đó, căng thẳng địa chính trị kéo dài, các vấn đề về biến đôi khí hậu, chuyển đổi xanh, rủi ro an ninh năng lượng, lương thực và thiên tai, dịch bệnh... Việt Nam vẫn phải đối mặt. Đặc biệt, sự thay đổi một số chính sách kinh tế và đối ngoại của Hoa Kỳ sẽ có sức ảnh hưởng lớn đối với kinh tế thế giới và Việt Nam. Do Việt Nam có cán cân thương mại thặng dư tương đối lớn với Hoa Kỳ, nên rủi ro khi Hoa Kỳ có thể mở rộng các chính sách bảo hộ, áp thuế đối với xuất khẩu Việt Nam là hiện hữu.
"Tuy nhiên, tôi tin tưởng dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính và với nên tảng kinh tê vĩ mô ôn định và phát triển, thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ tiệp tục phát triên bền vững, đóng góp ngày càng hiệu quả vào sự phát triển của kinh tế nước nhà", ông Hoà nói.
Ông Nguyễn Quang Thuân: Tại sao gần 20 năm VN-Index vẫn loanh quanh 1.200 điểm?
Chia sẻ tại toạ đàm, ông Nguyễn Quang Thuân, Chủ tịch Fiingroup, đã đề cập tới việc thị trường chứng khoán tại Việt Nam chậm phát triển, biểu hiện là VN-Index mãi “loanh quanh” 1.200 điểm.
Ông cho hay, khi tham dự một hội nghị về thị trường chứng khoán tại Singapore do Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc chủ trì, rất nhiều người đã hỏi ông: Tại sao gần 20 năm VN-Index vẫn loanh quanh 1.200 điểm, trong khi Dow Jones đã tăng gấp 3-4 lần?
“Tôi chỉ nói lúc VN-Index 1.170 điểm, P/E của Việt Nam là 37-40, còn bây giờ VN-Index 1.200 điểm thì P/E là 11-13”, ông Thuân nói và cho biết thêm rằng điều này tuỳ thuộc chiến lược đầu tư của mỗi bên.
Nói thêm về các quỹ đầu tư nước ngoài, ông Thuân cho biết Việt Nam đã hình thành thị trường TPDN rồi, các quỹ hiện có nhu cầu đầu tư đa kênh rất lớn, vào trái phiếu và cổ phiếu, thậm chí trái phiếu chính phủ một phần.
Cũng theo ông Thuân, điều này cho thấy còn tiềm năng rất lớn cho hoạt động của các quỹ, nhưng thị trường còn nhỏ.
Chuyên gia này cho rằng con số 9 triệu tài khoản sẽ còn tăng tiếp, có thể lên tới 15 triệu tài khoản, nên cần cải thiện thiết kế chính sách để phục vụ nhà đầu tư.
Ông Thuân đồng thời cho biết thị trường chứng khoán Việt Nam là “cuộc chiến” giữ 9 triệu tài khoản cá nhân, trong đó 3-4 triệu nhà đầu tư cá nhân với các nhà đầu tư nước ngoài.
Theo ông Thuân, cần chú trọng về tính minh bạch thông tin, thúc đẩy các quỹ đầu tư trong nước để “đấu tranh” với nhà đầu tư nước ngoài.
Chuyên gia này cho biết, do nhà đầu tư nước ngoài đầu tư qua các quỹ, đầu tư lâu dài nên họ rất ít khi lỗ, còn ở thời điểm hiện tại nhà đầu tư cá nhân thì dễ lỗ hơn, một phần do tư duy “lướt sóng”.
Chia sẻ về hiệu quả của các quỹ, ông Thuân cho rằng “một trong những điểm Việt Nam đang thiếu các định chế tài chính, các quỹ quản lý đầu tư chuyên nghiệp” vì các quỹ mấy trăm tỷ USD hầu như là uỷ thác khi đầu tư vào thị trường Việt Nam. Riêng quỹ ETF thì hiệu quả không phải là lãi bao nhiêu mà là theo dõi sự thay đổi chênh lệch (tracking error) so với index.
“Đối với các quỹ mở cổ phiếu, để đánh giá được hiệu quả của quỹ đầu tư thì chúng tôi thường nhìn vào thời gian 5-10 năm và lợi nhuận mang tính ổn định, chứ không thể nói là quỹ này, quỹ kia hoạt động hiệu quả tốt hơn 1 năm”, ông Thuân chia sẻ.
Nhưng từ dữ liệu cho thấy hầu hết nhà đầu tư outperform (vượt trội) là nhà đầu tư cá nhân, ví dụ VN-Index tăng 10%/năm thì dù tính cách nào các nhà đầu tư cũng tăng gấp đôi, gấp rưỡi chỉ số.
“Tuy nhiên, để đánh giá hiệu quả các quỹ, không chỉ nhìn vào lợi nhuận mà còn phải nhìn vào rủi ro”, ông Thuân cho biết. Ông cho rằng thay vì chỉ tung hô các quỹ có hiệu quả (perform) tốt, mà phải hiểu các rủi ro là thế nào.
Tại hội thảo, ông Thuân cũng chia sẻ một số biện pháp gợi mở nhằm nâng cao chất lượng hàng hoá trên thị trường chứng khoán.
“Về phần đề xuất chính sách, tôi sẽ dùng từ 'gợi mở' chính sách vì rất nhiều điều tôi nói ra đây có thể 5-20 năm nữa Việt Nam mới có thể áp dụng, vì để có được đề xuất cần cụ thể và nghiên cứu sâu hơn về cơ sở pháp lý, hiện trạng của Việt Nam, thông lệ quốc tế và thực sự có thể áp dụng ở Việt Nam hay không”, ông Thuân cho biết.
Cụ thể, với sản phẩm cổ phiếu, nên: (1) Đẩy mạnh giảm sở hữu nhà nước ở những công ty, ngành mà Nhà nước không cần sở hữu chi phối hoặc kiểm soát; (2) Khuyến khích các doanh nghiệp trên UPCoM chuyển sang sàn niêm yết và nâng cao hoặc rà soát chuẩn niêm yết hoặc để các công ty tăng cường quản trị doanh nghiệp và minh bạch; và (3) Tiếp tục cải thiện hơn nữa chất lượng công bố thông tin.
Với sản phẩm trái phiếu, ngoài việc tiếp tục chuẩn hoá minh bạch thông tin, cần đa dạng hàng hoá, triển khai hoạt động xếp hạng tín nhiệm đối với trái phiếu doanh nghiệp; hình thành khung pháp lý cho các công ty bảo lãnh trái phiếu và xây dựng nền tảng mềm (đường cong lãi suất, lịch sử vỡ nợ,…)
Nói thêm về cơ chế cho trái phiếu xanh, ông Thuân cho biết trái phiếu xanh đạt tổng giá trị phát hành khoảng 6,87 nghìn tỷ và chiếm 2% tổng trái phiếu phi ngân hàng phát hành từ đầu năm 2024. Đây là một con số rất nhỏ.
Đưa ra khuyến nghị phát triển cơ sở nhà đầu tư tổ chức vào thị trường trái phiếu doanh nghiệp, ông Thuân cho biết, các định chế đầu tư tổ chức bao gồm quỹ đầu tư, công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí tự nguyện còn sở hữu rất hạn chế (chưa đến 10% giá trị trái phiếu lưu hành). Do đó, cần sửa đổi quy định để phát triển nhà đầu tư tổ chức: cho phép các định chế tài chính tham gia sâu hơn vào trái phiếu doanh nghiệp dựa trên khung quản trị đầu tư dựa trên rủi ro (Risk-Base Capital).
Bên cạnh đó, cần hướng tới áp dụng phân bổ tài sản theo rủi ro cho các công ty bảo hiểm, cho các tổ chức tín dụng, theo Chủ tịch FiinGroup.
Ông Ngô Thành Huấn: Cấp thiết thúc đẩy phát triển quỹ hưu trí tự nguyện, quỹ bảo hiểm
Phát biểu tại hội thảo, ông Ngô Thành Huấn, Giám đốc điều hành FIDT, nhận định: “Chúng ta mải miết nói về bài toán dân số vàng nhưng lại quên đi mất rằng Việt Nam đang là quốc gia có tốc độ già hóa dân số cao nhất thế giới. Nếu như chỉ vài năm trước, chúng ta nói về câu chuyện ‘dù gái hay trai, chỉ hai là đủ’ thì đến nay, câu chuyện lại trở thành ‘sinh đủ hai con là trách nhiệm đối với xã hội”.
Ông dẫn chứng, Việt Nam hiện đang là một trong 10 quốc gia trên thế giới có tốc độ già hóa dân số cao nhất, thậm chí vượt qua nhiều quốc gia phát triển. Khi cơ cấu dân số vàng đang dần trôi qua, áp lực già hóa dân số tăng cao đang đặt ra áp lực không nhỏ lên nguồn quỹ hưu trí mà Chính phủ đang quản lý. Đồng thời, điều này cũng ảnh hưởng đến bức tranh tài chính của mỗi người dân.
"Chúng ta nói nhiều đến các nhà đầu tư tổ chức và định chế nhưng lại không nói quá nhiều đến nhà đầu tư cá nhân. Những thế hệ 8X – thế hệ 'bánh mì kẹp' – khi vừa phải chịu trách nhiệm với cha mẹ, vừa phải chăm sóc con cái – đang phải gánh trên vai ngày càng nhiều áp lực", ông nói.
Dưới góc nhìn của FIDT, ông Huấn cho rằng, trong bối cảnh đó, việc phát triển các quỹ hưu trí tự nguyện và các nguồn quỹ từ các công ty bảo hiểm sẽ là giải pháp để giúp các nhà đầu tư cá nhân được hưởng lợi.
Tại Việt Nam, thời gian qua, các quỹ hưu trí bổ sung tự nguyện và các quỹ từ các công ty bảo hiểm đã và đang có những đóng góp rõ nét vào sự phát triển của thị trường vốn Việt Nam. Trong đó, hệ thống quỹ hưu trí tự nguyện chính thức đi vào hoạt động từ năm 2021 và hiện có 10 quỹ do 4 doanh nghiệp quản lý quỹ với tổng giá trị tài sản đến năm 2023 là 857,9 tỷ đồng.
Ngoài ra, với sự phát triển về nhận thức quản lý tài chính cá nhân, ngày càng thu hút đông đảo người dân, đặc biệt người trẻ tham gia đầu tư dài hạn vào các sản phẩm bảo hiểm.
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn không ít thách thức khi số lượng người Việt tham gia bảo hiểm còn thấp, mới chỉ 18%. Những sự cố về truyền thông giai đoạn vừa qua cũng khiến người dân có cái nhìn chưa tốt về hoạt động của các quỹ và công ty bảo hiểm.
Theo ông Huấn, dư địa phát triển của các quỹ bảo hiểm và quỹ hưu trí tự nguyện tại Việt Nam còn rất lớn. Tuy nhiên, để có thể thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa việc phát triển các quỹ hưu trí bổ sung tự nguyện và các quỹ từ công ty bảo hiểm, cần gia tăng sự hỗ trợ từ chính sách thuế khi mức hỗ trợ hiện tại không đủ cho sự tham gia trước hết là của các tầng lớp trung lưu, sau đó là các tầng lớp khác trong xã hội.
Bên cạnh đó, cần phát triển ngành hoạch định tài chính cá nhân một cách bài bản bởi mỗi chuyên gia hoạch định tài chính cá nhân là một bác sĩ tài chính.
Không kém phần quan trọng là cần tăng cường phổ cập kiến thức về quản lý tài chính cá nhân, từ đó người dân mới nhận thức được rõ tầm quan trọng của các quỹ bảo hiểm, quỹ hưu trí tự nguyện trong bức tranh tài chính tổng thể và dài hạn, ông Huấn nhận định.
Triển vọng nâng hạng TTCK thế nào?
Mở đầu phiên thảo luận “Phát triển thị trường vốn Việt Nam trong kỷ nguyên mới”, TS. Võ Trí Thành đề cập đến câu chuyện “nóng hổi” nhất hiện nay, đó là nâng hạng thị trường chứng khoán - mục tiêu mà ngành chứng khoán Việt Nam đã theo đuổi trong nhiều năm và được kỳ vọng sẽ tạo sức bật cho thị trường chứng khoán Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới.
Trước câu hỏi về triển vọng nâng hạng theo tiêu chuẩn của MSCI - vốn có nhiều tiêu chí hơn và các tiêu chí cũng khắt khe hơn, TS Tạ Thanh Bình – Tổng giám đốc VSDC chia sẻ: “Thực chất, bộ tiêu chí MSCI không quá khác biệt so với FTSE Russell”.
Làm rõ các tiêu chí cần cải thiện, TS Bình cho hay, với MSCI, yêu cầu CCP được coi là bắt buộc. Ngoài ra, tổ chức này còn quan tâm đến mức sở hữu nước ngoài tối đa, mức sở hữu nước ngoài còn lại quyền bình đẳng đối với nhà đầu tư nước ngoài, mà cụ thể là vấn đề minh bạch, khả năng tiếp cận thông tin của nhà đầu tư nước ngoài.
Bên cạnh đó, còn có các yêu cầu về đồng tiền tự do chuyển đổi, mức độ tự do hoá của thị trường ngoại hối, các cơ chế để hoạt động bù trừ đáp ứng yêu cầu của thông lệ quốc tế. Nhà đầu tư nước ngoài còn yêu cầu cho phép giao dịch bán khống và tăng cường khả năng tiếp cận thị trường.
“Tuy nhiên, việc đáp ứng các tiêu chí trên chỉ là một phần, quan trọng là sự trải nghiệm của các nhà đầu tư nước ngoài. Chẳng hạn, với vấn đề sở hữu nước ngoài, đối với một số doanh nghiệp, nhà đầu tư nước ngoài đã “cạn room”, đây là điều khiến họ chưa thể hài lòng”, TS Bình nêu vấn đề.
Nói thêm về vấn đề sở hữu nước ngoài, ông Tô Trần Hòa – Phó Vụ trưởng Vụ Phát triển thị trường, UBCKNN cho hay, qua tìm hiểu và làm việc với một số đối tác tư vấn, tỷ lệ sở hữu nước ngoài bình quân tại các doanh nghiệp niêm yết Việt Nam đang rơi vào khoảng 17%, chỉ bằng một nửa các doanh nghiệp niêm yết tại Singapore hay Thái Lan.
Ông Hoà cũng lưu ý, UBCKNN đã tiếp nhận và sẽ kiểm chứng thông tin này. “Nhưng nói về trải nghiệm, đúng là các nhà đầu tư nước ngoài đang thiệt thòi”, ông Hoà nói.
Theo Phó Vụ trưởng Vụ Phát triển thị trường, UBCKNN, quan điểm của Chính phủ là khuyến khích sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, vấn đề là cần làm rõ danh mục ngành nghề tiếp cận của nhà đầu tư nước ngoài, vốn liên quan đến rất nhiều bên như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Xây dựng, Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Thông tin và Truyền thông.
Ông Tô Trần Hoà cũng đề cập đến một thực trạng rằng, nhiều doanh nghiệp khi đăng ký ngành nghề kinh doanh thường chọn các ngành rộng, bao gồm cả các ngành nhỏ hơn (cấp 5) có quy định giới hạn tỷ lệ sở hữu nước ngoài. Điều này khiến doanh nghiệp không thể "mở room" cho nhà đầu tư ngoại.
“Để giải quyết vấn đề, các bộ ngành cần quyết tâm phối hợp và làm rõ danh mục này. Nếu thực hiện được, trải nghiệm của nhà đầu tư chứng khoán sẽ được cải thiện đáng kể,” ông Hòa nói thêm.
Về tự do hoá đồng tiền chuyển đổi, UBCKNN đã hỏi về trung tâm tài chính đặc thù, đây là chính sách, mô hình “đặc thù của đặc thù” với rất nhiều yêu cầu về an ninh tài chính quốc gia. Đối với TTCK, khi kiểm soát đồng tiền trong thị trường, đòi hỏi sự phối hợp “rất chặt chẽ, rất cụ thể” của nhiều đơn vị. “Hoạt động này cũng liên quan đến NHNN, quan điểm của Bộ Tài chính là cùng chung tay nghiên cứu phương án phù hợp nhất”, ông Hoà cho hay.
Doanh nghiệp cần chuẩn bị gì cho nâng hạng?
Chia sẻ về sự chuẩn bị cho quá trình nâng hạng TTCK, ông Nguyễn Khắc Hải, Giám đốc Khối phụ trách Luật và Kiểm soát tuân thủ, Công ty Chứng khoán SSI cho hay, SSI là một trong những thành viên tích cực tham gia vào việc triển khai Thông tư 68, ngay từ những ngày đầu.
“Từ ngày 2/11 khi Thông tư 68 chính thức có hiệu lực đến nay, dù bối cảnh thị trường không thuận lợi, tỷ lệ các nhà đầu tư nước ngoài sử dụng dịch vụ đã khoảng 10%. Đây là một tín hiệu tích cực. Chúng ta sẽ cần 6 tháng để FTSE Russell quan sát và đánh giá việc các nhà đầu tư nước ngoài sử dụng dịch vụ. Với tình hình hiện tại, tôi tự tin thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ được nâng hạng vào kỳ review tháng 9 của tổ chức này”, ông Hải lạc quan.
Về đáp ứng tiêu chuẩn nâng hạng MSCI, ông Nguyễn Khắc Hải cho biết cần phải giải quyết một số vấn đề.
Thứ nhất là về tỷ lệ sở hữu nước ngoài. Một số công ty hiện vẫn đang tự giới hạn tỷ lệ sở hữu nước ngoài vì một số những lý do riêng. Khi nhà đầu tư nước ngoài nắm trên 50% vốn của công ty thì đó được coi là công ty có vốn đầu tư nước ngoài. Một lý do khác là nỗi lo bị thôn tính. Tuy nhiên, theo ông Hải, các doanh nghiệp không nên quan ngại vấn đề này.
“Trong thị trường hội nhập, thị trường mở, chúng ta cần nguồn lực, cần kinh nghiệm, đối tác, khách hàng. Bản thân các doanh nghiệp Việt Nam cũng có thế mạnh là sự am hiểu thị trường nội địa. Rõ ràng, các công ty nước ngoài khi đến thị trường Việt Nam, trước hết phải dựa vào bản thân những người ở đây. Tôi tin rằng, những công ty có hệ thống quản trị tốt, làm ăn minh bạch, không cần phải phải lo công ty ngoại thôn tính, vì chưa chắc họ đã làm tốt hơn chúng ta. Họ sẽ sẵn sàng bỏ tiền và thực hiện theo các quyết định của chúng ta. Tuỳ theo mức phát triển của doanh nghiệp, khi cần thêm vốn, thêm nguồn lực, các nhà sáng lập có thể bán lại một hay một số mảng hoạt động cho nhà đầu tư ngoại thực hiện các bước phát triển mới hoặc để đi xây những doanh nghiệp mới”, ông Hải phân tích.
Thứ hai là về triển khai CCP, Luật Chứng khoán sửa đổi đã tạo ra những hành lang quan trọng, bao gồm việc cho phép ngân hàng thương mại nước ngoài tham gia thanh toán bù trừ trên thị trường cơ sở và cho phép VSDC được thành lập các công ty con để thực hiện CCP. Đây là bước ngoặt quan trọng liên quan đến việc tách biệt rủi ro. Theo đó, công ty con của VSDC, với trách nhiệm là bên thanh toán cuối cùng, sẽ cần có nguồn lực, có vốn để tham gia cùng tất cả các thành viên trên thị trường.
“Khi đã “mở” được hai “nút thắt” này trong dự thảo Luật Chứng khoán mới, chắc chắn trong tương lai, chúng ta sẽ triển khai được CCP, từ đó mở được những sản phẩm mới: giao dịch trong ngày, bán khống,…”, lãnh đạo SSI cho hay.
Thứ ba là quyền được đối xử bình đẳng của nhà đầu tư nước ngoài. Ông Nguyễn Khắc Hải thông tin, trong hội nghị gần nhất của HoSE, hầu hết các doanh nghiệp đều cho biết đã sẵn sàng thực hiện lộ trình công bố thông tin bằng tiếng Anh.
Thứ tư là vấn đề xác định ngành nghề kinh doanh. Đồng quan điểm với bà Tạ Thanh Bình và ông Tô Trần Hoà, ông Hải cho rằng, cần có sự chung tay của cả thị trường. “Về phía SSI, đối với những tiêu chí này, chúng tôi sẽ luôn tiên phong, đi đầu”, ông Hải khẳng định.
Chỉ khi BĐS khởi sắc, thị trường TPDN mới đi lên
Liên quan đến những quy định mới về thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) trong Luật Chứng khoán sửa đổi, TS Lê Xuân Nghĩa cho rằng những quy định này đã phần nào giúp thị trường khởi sắc trở lại. Tuy nhiên, TS Lê Xuân Nghĩa cho rằng, thị trường TPDN còn đang phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức.
“Thị trường TPDN phản ánh rõ nét cấu trúc của nền kinh tế Việt Nam. Tăng trưởng GDP ở Việt Nam cao nhưng phần lớn chỉ dựa vào xuất khẩu – ‘khu vực’ mà các doanh nghiệp FDI chiếm phần lớn. Trong khi đó, các doanh nghiệp nội địa chỉ đóng góp một phần rất nhỏ vào xuất khẩu và chủ yếu chỉ là các doanh nghiệp trong ngành nông, lâm, thủy sản. Bên cạnh đó, động lực tăng trưởng của GDP còn đến từ đầu tư, nhưng cũng giống như xuất khẩu, lĩnh vực đầu tư của Việt Nam cũng xuất phát chủ yếu từ các doanh nghiệp FDI.
"Một động lực khác là bán lẻ cũng rơi vào tình trạng tương tự. Nói cách khác, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam chủ yếu dựa vào khối FDI. Nếu không có cải cách mạnh mẽ về thị trường TPDN – kênh huy động vốn trung và dài hạn cho các doanh nghiệp - về cả số lượng lẫn công nghệ và kĩ thuật thì chúng ta khó có thể vực dậy các doanh nghiệp nội địa. Khi đó, tăng trưởng của nền kinh tế chỉ có thể tiếp tục ‘dựa dẫm’ vào các doanh nghiệp FDI”, ông Nghĩa nói.
Về thực trạng của thị trường TPDN, ông Nghĩa cho rằng cơ cấu tham gia thị trường này chủ yếu là các doanh nghiệp bất động sản và ngân hàng. Tuy nhiên, việc huy động vốn qua kênh TPDN của các ngân hàng chủ yếu phục vụ cho mục đích tăng vốn cấp 2, từ đó tăng huy động và cho vay. Còn các doanh nghiệp bất động sản lại đang rơi vào cảnh khó khăn khiến thị trường TPDN cũng bị ảnh hưởng theo. Trong khi đó, các doanh nghiệp nội địa khác thì thiếu vốn trầm trọng nhưng không thể tham gia sân chơi TPDN vì kỳ hạn ngắn (khoảng 3 năm) nhưng lãi suất lại rất cao.
“Nếu TPDN tiếp tục chỉ dựa vào bất động sản thì năm tới vẫn sẽ còn khó khăn. Đây cũng là vấn đề chúng ta phải cảnh giác”, ông Nghĩa nói.
Theo ông Nghĩa, để giải quyết được những khó khăn trên thị trường TPDN hiện nay, điều đầu tiên cần làm là giải quyết các dự án bất động sản lớn đang bị “đắp chiếu” tại các tỉnh thành. “Chỉ khi đó, thị trường bất động sản mới khởi sắc, kéo theo thị trường TPDN đi lên”, ông nhận định. Bên cạnh đó, ông Nghĩa cho rằng cần thu hút thêm các nhà đầu tư nước ngoài tham gia thị trường TPDN.
Đồng quan điểm với TS Lê Xuân Nghĩa, ông Nguyễn Khắc Hải, Giám đốc Khối phụ trách Luật và Kiểm soát tuân thủ, SSI, đánh giá những thay đổi trong Luật chứng khoán sửa đổi liên quan đến thị trường TPDN nhìn chung sẽ giúp thị trường phát triển theo hướng chặt chẽ hơn.
“Những điều kiện khắt khe hơn về TPDN trong Luật Chứng khoán sửa đổi sẽ giúp giải tỏa tâm lý của các nhà đầu tư trên thị trường này. Các thay đổi này giúp ‘mở đường’ cho các nhà đầu tư quay trở lại thị trường, kích thích sự sôi động vốn có của kênh huy động vốn này”, ông Hải nhận định.
Tuy nhiên, ông cũng gợi mở rằng cần phải huy động thêm các nhà đầu tư nước ngoài để đa dạng hóa hơn tệp khách hàng tham gia vào thị trường TPDN. “Trước đây, việc mở tài khoản để giao dịch TPDN đối với nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam vốn đã phải tuân theo những quy định rất chặt chẽ. Chúng ta không cần ra thêm những quy định liên quan đến vấn đề này, thay vào đó, cần xem xét và sửa đổi các quy định để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho nhà đầu tư nước ngoài tham gia thị trường này”, ông Hải nói.
Chính sách của Donald Trump và triển vọng thị trường vốn 2025
Điểm lại một số chính sách tiềm năng trong nhiệm kỳ mới của ông Donald Trump, ông Phạm Lưu Hưng từ SSI cho biết một số chính sách sẽ đem lại cả khó khăn và sự tích cực cho Việt Nam.
Cụ thể, những chính sách như chuyện đánh thuế hay USD tăng có thể khiến các thị trường mới nổi như Việt Nam gặp nhiều khó khăn. Ngoài ra, các lựa chọn về nhân sự của tổng thống đắc cử Mỹ bây giờ theo hướng ủng hộ tài sản số, nên sẽ có kênh bất lợi cho Việt Nam.
Theo ông Hưng, khác với nhiệm kỳ đầu của ông Trump, khi năm 2017 khá “yên bình” trước khi sóng gió kéo tới từ năm 2018, “những biến động mạnh có thể đến ngay từ 100 ngày đầu” trong nhiệm kỳ thứ 2 của ông Trump.
Về mặt tích cực, ông Hưng cho rằng Việt Nam đã có sự chuẩn bị nhất định qua một nhiệm kỳ trước, vì như World Bank nhận định, “Việt Nam được mệnh danh là quốc gia kết nối trong một thế giới phân mảnh”.
Chia sẻ thêm về tầm ảnh hưởng của nhiệm kỳ thứ hai của ông Trump với thị trường vốn Việt Nam, ông Hưng cho biết “chúng ta chỉ kiểm soát những thứ chúng ta kiểm soát được”, đó là những biện pháp cảii thiện thị trường vốn trong nước.
Nói thêm về việc nâng hạng thị trường chứng khoán, ông Hưng cho rằng có những việc rất nhỏ như thời gian mở tài khoản cho nhà đầu tư nước ngoài hiện có thể mất tới cả tháng. Theo ông Hưng, những việc này như “hạt cát trong giày”, nhỏ nhưng gây khó chịu, và Việt Nam cần xử lý trước khi nói tới những điều to tát hơn.
Cũng chia sẻ về tiềm năng của thị trường Việt Nam trong năm 2025, dưới một nhiệm kỳ mới từ ông Donald Trump, ông Nguyễn Tú Anh từ Ban Kinh tế Trung ương cho biết tình hình tương đối tích cực.
Theo ông Tú Anh, thứ ảnh hưởng tỷ giá lãi suất Việt Nam là USD và lãi suất của Fed. Nếu Fed giảm tiếp, Việt Nam có thể đạt mục tiêu giảm và lãi suất ổn định, vì Fed giảm thì động lực thực hiện đưa tiền trong nước ra nước ngoài có thể giảm, dòng tiền có thể quay lại.
Cũng theo chuyên gia này, dù ông Trump được mệnh danh là “tariff-man”, nhưng không thể đánh thuế tất cả vì Mỹ phải nhập khẩu rất nhiều, nên họ phải “hé cửa” để phục vụ nhân dân, nếu không lạm phát rất cao. Dựa trên quan điểm này, có thể Việt Nam vẫn còn cơ hội.
Một điểm khác liên quan tới chính sách tài khoá của Mỹ sắp tới. Ông Tú Anh cho rằng nợ công Mỹ rất cao, riêng trả lãi suất của Mỹ đã vô cùng cao. Nếu tiếp tục mở rộng tài khoá phải in tiền, ảnh hưởng tới nền kinh tế. Để khắc phục, chỉ có cách Fed giảm lãi suất. “Do đó, trong bối cảnh mới, dù chính sách thế nào, Fed sẽ tiếp tục giảm lãi suất”, ông Tú Anh nói. Nhờ đó, Việt Nam sẽ có dư trên cán cân thanh toán, dòng tiền chảy vào và NHNN có thể mua dự trữ và đẩy tiền ra.
Cchỉ có 1 rủi ro là lạm phát, nhưng theo ông Tú Anh, lạm phát Việt Nam dường như không nhạy cảm lắm.
Nhà đầu tư nước ngoài có trở lại TTCK?
Nhìn về triển vọng thị trường chứng khoán năm 2025, TS Hồ Sỹ Hoà – Giám đốc Nghiên cứu và Tư vấn đầu tư, Công ty CP Chứng khoán DNSE, cho rằng để khối ngoại trở lại, cần 3 điều kiện: định giá, dự báo tăng trưởng ngành và tiến trình nâng hạng.
“Về định giá, P/E của Việt Nam đang ở mức 12x, tương đối hấp dẫn. Trong khi đó, thị trường Mỹ, dù nhà đầu tư nước ngoài hướng về thị trường phát triển, nhưng nhìn vào định giá S&P500 đang ở mức 23 lần thì không còn quá hấp dẫn”, ông Hoà cho biết.
Về tăng trưởng, trong 9 tháng đầu năm 2024, hầu hết các ngành đều tăng trưởng tích cực, ngoại trừ bất động sản ghi nhận mức giảm 40%. Tuy nhiên, theo ông Hoà, với định hướng của Chính phủ về tháo gỡ trái phiếu, nhìn tới năm 2025, đáo hạn trái phiếu rơi vào khoảng 250.000 tỷ đồng, trong đó đáo hạn trái phiếu bất động sản là 80.000 tỷ đồng, “nếu được tháo gỡ, tăng trưởng doanh nghiệp sẽ duy trì đà tăng trưởng như 9 tháng đầu năm, tức là rơi vào khoảng 15-17%”, ông Hoà nhận định.
Giám đốc Nghiên cứu và Tư vấn đầu tư của DNSE cũng nói thêm, giải pháp căn cơ cho tiến trình nâng hạng CCP đã được mở hành lang pháp lý. Do đó, có thể kỳ vọng năm 2025, nhà đầu tư nước ngoài sẽ trở lại thị trường chứng khoán Việt Nam.
Thị trường tiền ảo đứng trước cơ hội to lớn
Liên quan đến thị trường tiền ảo, theo ông Đinh Trọng Thịnh, số lượng người tham gia thị trường bitcoin, tiền ảo ở Việt Nam rất nhiều nhưng khung pháp lý và những quy định liên quan đến thị trường này lại gần như bằng 0 dù Bộ Tài chính và các cơ quan ban ngành cũng đã đưa ra một số quy định ban đầu.
“Trong bối cảnh Tổng thống Donald Trump quay trở lại Nhà Trắng, thị trường tiền ảo đang đứng trước nhiều cơ hội to lớn. Đây cũng là thời điểm các cơ quan quản lý tại Việt Nam đi sâu vào quản lý tiền ảo sao cho hiệu quả. Nếu chúng ta không nắm bắt được cơ họi này thì sẽ vô cùng lãng phí”, ông Thịnh nhấn mạnh.
Năm 2025 có chuyển biến tích cực từ thị trường vốn
Tại hội thảo, ông Phùng Quốc Hiển, nguyên Uỷ viên Trung ương Đảng, nguyên Phó chủ tịch Quốc hội, khẳng định thị trường trải qua 1 thời gian khó khăn, thị trường vốn đã có khởi sắc.
“Thời gian qua, thị trường chứng khoán có sự phát triển cả về quy mô và chất lượng, quy mô vốn hoá, số lượng tài khoản tham gia vào thị trường trong năm qua đều tăng lên. Về thị trường trái phiếu, thời gian qua, thị trường có sự phát triển về lượng phát hành, lãi suất giảm. Năm sau, với sự triển khai các dự án đầu tư công như sân bay Long Thành, các tuyến cao tốc… lượng vốn đầu tư công sẽ được sử dụng nhiều, từ đây, trái phiếu Chính phủ sẽ được phát hành nhiều hơn, thị trường trái phiếu cũng khởi sắc”, ông Hiển nói.
Từ những lập luận này, ông Hiển khẳng định thị trường vốn năm 2025 sẽ có những chuyển biến tích cực.
Thông tin thêm tại hội thảo, ông Hiển cho biết Quốc hội giao chỉ tiêu lạm phát sẽ được kiểm soát ở mức 4,5%, điều này đồng nghĩa với việc sẽ có sự nới lỏng về chính sách tiền tệ.
“Chúng ta có thể chấp nhận lạm phát ở một mức nào đó để nền kinh tế có được tăng trưởng. Khi tăng trưởng có, thị trường vốn sẽ được thúc đẩy. Tôi đồng ý là sẽ có rủi ro khi ông Trump lên làm tổng thống Mỹ thì chính sách tiền tệ sẽ thay đổi nhưng đây là vấn đề chúng ta có thể lường trước được”, ông Hiển nói.
Tiếp đó, theo ông Hiển, Luật Chứng khoán mới được thông qua sẽ giúp thanh lọc thị trường, thanh lọc nhà đầu tư, giúp thị trường phát triển lành mạnh. “Về vấn đề nợ công, hiện nay, nợ công đang ở mức dưới 40%. so với giai đoạn trước đây, nợ công đã giảm mạnh. Thu ngân sách lại ở mức ổn định. Thu ngân sách hiện nay thu 10 đồng thì dành 4 đồng trả nợ. Sự giảm mạnh của nợ công và thu ngân sách ổn định cũng là điều kiện quan trọng để thị trường vốn ổn định”, ông Hiển nói.
Tuy nhiên, về điểm nghẽn chính sách, ông Hiển khẳng định, vấn đề điểm nghẽn hiện nay chính là niềm tin của nhà đầu tư. “Phải làm sao để cải thiện điều này lên, khắc phục điều này thì thị trường vốn sẽ phát triển bền vững”, ông Hiển khẳng định.
Ông Hiển đánh giá cao hội thảo với nhiều thông tin chất lượng, cung cấp các thông tin, kiến thức quan trọng cho các nhà đầu tư, độc giả về bức tranh toàn cảnh của thị trường vốn 2024 và triển vọng thị trường năm 2025.
Những gì dồn nén sẽ được bung ra trong năm 2025
PGS.TS Lê Bộ Lĩnh, Nguyên Phó chủ nhiệm văn phòng Quốc hội cho biết: “Năm sau là năm cuối cùng trong nhiệm kỳ 2021-2025, đề án tinh giảm bộ máy, tinh giảm biên chế sẽ tạo ra những quyết tâm và động lực cao hơn cho giai đoạn sắp tới. Những gì dồn nén từ những năm biến động sẽ được bung ra và kích thích tăng trưởng”.
Nhìn sang năm 2025, ông Lĩnh cho rằng nền kinh tế vẫn còn đối mặt khá nhiều thách thức. Về động lực tăng trưởng cho năm sau, ông Lĩnh nói rằng động lực sẽ tới từ sự tăng trưởng của khu vực kinh tế tư nhân.
“Trong khi các động lực tăng trưởng cũ đang đuối dần, thì các động lực tăng trưởng mới như kinh tế số, kinh tế xanh cũng cần thời gian từ 5-10 năm mới có thể tạo ra đóng góp cho tăng trưởng. Quá trình cải cách bộ máy cũng cần độ trễ để có thể giảm chi tiêu từ bộ máy chuyển sang chi tiêu cho đầu tư công từ đó tạo ra tăng trưởng, do đó, kinh tế tư nhân sẽ là hy vọng lớn của nền kinh tế”, ông Lĩnh nói.
Giáo dục tài chính cá nhân
Chia sẻ về vấn đề nâng cao năng lực quản lý tài chính cá nhân, ông Ngô Thành Huấn, Giám đốc điều hành FIDT, nhận định do sự nhận thức về tài chính cá nhân cao hơn, nên tại thị trường nước ngoài, có nhiều tài khoản giao dịch hơn.
Ông Huấn cũng nói thêm, trong quãng thời gian trước, tại Việt Nam chưa đặt sự quan tâm tới việc giáo dục tài chính cá nhân, nhưng hiện tại, Chính phủ đã có những động thái rất rõ ràng về lĩnh vực này.
Sách giáo khoa cho học sinh đã có những nội dung về quản lý tài chính cá nhân, các tổ chức, ngân hàng có những hội thảo và chương trình liên quan tới vấn đề này. Đặc biệt, ngành bảo hiểm nhân thọ có những đông thái về hoạch định tài chính cá nhân, dựa trên kết quả nghiên cứu cho thấy nếu có kiến thức, người dân sẽ không còn những hiểu biết sai lệch về bảo hiểm nữa.
Do đó, theo ông Huấn, đi cùng với bức tranh phát triển kinh tế, việc nâng cao ý thức người dân cũng góp phần tô điểm cho tác phẩm này thêm rực rỡ.
Nói thêm về giáo dục tài chính cá nhân, ông Phạm Lưu Hưng từ SSI cho biết việc giáo dục tài chính cá nhân cần được lặp đi lặp lại để các bạn trẻ, sinh viên ngày nay thực sự hiểu, có thể thực hành về vấn đề này, chứ không thể chỉ mở ra những chương trình ngắn hạn. Bởi lẽ, những chương trình ngắn hạn và thiên về lý thuyết có thể khiến những người trẻ hiểu nhanh và quên nhanh, nhưng lại bối rối khi thực hành.
Hội thảo đã mang lại những góc nhìn sâu sắc
Phát biểu bế mạc hội thảo, TS Lê Minh Nghĩa, Chủ tịch Hiệp hội Tư vấn Tài chính Việt Nam, Trưởng ban tổ chức cho biết: "Qua 4 giờ làm việc tập trung, liên tục, với sự tham gia của các chuyên gia đầu ngành, lãnh đạo các cơ quan quản lý, đại diện doanh nghiệp và các định chế tài chính cùng với các khách mời, Hội thảo đã hoàn thành trọn vẹn các nội dung theo chương trình. Các ý kiến chuyên sâu từ các diễn giả, các nội dung đối thoại sôi nổi trong phiên bàn tròn, cùng các bài viết, các tài liệu tham khảo phong phú đăng trên Tạp chí Đầu tư tài chính đã giúp chúng ta tiếp cận chủ đề Hội thảo một cách toàn diện hơn… Tôi tin rằng Hội thảo đã mang lại những góc nhìn sâu sắc, các thông tin hữu ích cho quý vị".
Khép lại Hội thảo, Ban tổ chức đã được tóm lược một số nội dung cơ bản đã được trình bày và trao đổi làm rõ trong Hội thảo.
Thứ nhất, về bối cảnh chung của nền kinh tế, tác động đến nền kinh tế nói chung, thị trường vốn nói riêng, có thể thấy một số điểm nhấn quan trọng:
Quốc tế: Các chính sách kinh tế toàn cầu, như xu hướng bảo hộ thương mại hay căng thẳng địa chính trị, nổi bật là chính sách của Tổng thống mới đắc cử Donald Trump được cho là rất mạnh mẽ và khó đoán. Các động thái hướng đến chủ nghĩa bảo hộ có thể làm gián đoạn chuỗi cung ứng. Chính sách bảo hộ nhằm hỗ trợ nền kinh tế nội địa của Hoa Kỳ có thể duy trì sức mạnh của đồng USD, điều này có thể tạo áp lực đáng kể lên tỷ giá tại Việt Nam. Năm 2025 cũng có thể là thời điểm bước ngoặt của cuộc chiến Nga – Ukraine, từ đó tác động đáng kể đến cục diện kinh tế thế giới. Trong báo cáo triển vọng kinh tế mới nhất được công bố ngày 4/12, OECD dự báo kinh tế toàn cầu sẽ tăng trưởng 3,2% trong năm nay, tăng 3,3% trong 2 năm 2025 và 2026.
Trong nước: Năm 2025 là năm cuối thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 – 2025, là năm bản lề về đích quan trọng. Đảng, Nhà nước ta đã xác định: năm 2025 là năm tăng tốc, bứt phá, tháo gỡ khó khăn, vượt qua thách thức; lấy ổn định làm tiền đề thúc đẩy phát triển và phát triển để làm cơ sở cho ổn định; phấn đấu đạt kết quả cao nhất các mục tiêu, chỉ tiêu của kế hoạch 5 năm 2021-2025. Phấn đấu tăng trưởng cả nước năm 2025 đạt khoảng 8% (và tạo đà phấn đấu mức 2 con số trong giai đoạn 2026 – 2030, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc).
Thứ hai, về triển vọng và những bước phát triển cần thiết cho thị trường vốn, để phát triển kinh tế thì phát triển thị trường vốn hiệu quả, bền vững là yêu cầu cấp thiết. Môi trường chính trị - kinh tế ổn định, tăng trưởng nhanh là điều kiện thuận lợi để Việt Nam thu hút dòng vốn đầu tư. Những nỗ lực trong thời gian qua, đặc biệt là việc không ngừng hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, việc thông qua Luật Chứng khoán sửa đổi cùng với 8 luật khác liên quan đến lĩnh vực tài chính, sẽ tạo nên những nền tảng vững chắc hơn cho thị trường phát triển.
Thứ ba, Hội thảo cũng thống nhất việc nâng hạng thị trường chứng khoán là tất yếu và cần kíp, là nhiệm vụ quan trọng đối với ngành chứng khoán nói riêng và Chính phủ nói chung trong những năm tới. Đồng thời, nâng xếp hạng tín nhiệm quốc gia để hút dòng vốn ngoại cũng là vấn đề lớn cần được quan tâm.
Hội thảo đã chỉ ra những vấn đề quan trọng, mang tính cốt lõi, đó là tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, cải thiện chất lượng doanh nghiệp niêm yết, nâng cao chất lượng hàng hóa trên thị trường, tiếp tục phát triển hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng thanh toán, mở rộng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài, tăng cường quản lý thị trường để gia tăng tính minh bạch và kỷ luật.
Thứ tư, thị trường vốn Việt Nam cũng cần hướng đến một cơ cấu nhà đầu tư bền vững hơn, trong đó, gia tăng tỷ trọng của nhà đầu tư tổ chức, tăng cường các giải pháp để bảo vệ nhà đầu tư cá nhân. Nâng xếp hạng tín nhiệm quốc gia để hút dòng vốn ngoại Hội thảo nhấn mạnh vai trò tham gia từ người dân vào chương trình Quỹ Hưu trí bổ sung tự nguyện (Nghị định 88/2016/NĐ-CP); Thúc đẩy tỷ lệ người dân tham gia vào BHNT trong phát triển thị trường vốn; Hướng tới áp dụng phân bổ tài sản theo rủi ro cho các Tổ chức Tín dụng, các công ty bảo hiểm.
Thứ năm, phát triển có định hướng và lộ trình cho Tư vấn tài chính, danh xưng cần tương xứng thực lực, tránh làm sai lệch kỳ vọng của khách hàng và sự phát triển bền vững của thị trường; Khẳng định tầm quan trọng của các chương trình đào tạo, nâng cao dân trí tài chính, khuyến khích đầu tư qua các quỹ chuyên nghiệp và cung cấp thông tin minh bạch để nhà đầu tư có thể tiếp cận các kênh phù hợp.
Thứ sáu, Hội thảo đã đề xuất nhiều giải pháp mang tính chiến lược để thúc đẩy dẫn vốn bền vững vào các lĩnh vực ưu tiên trong kỷ nguyên mới như: kinh tế xanh, kinh tế số, đổi mới sáng tạo, phát triển bền vững.
“Kính thưa quý vị đại biểu! Đến đây có thể khẳng định Hội thảo đã diễn ra thành công tốt đẹp. Trên cơ sở các nội dung thảo luận tại Hội thảo, VFCA sẽ tổng hợp thành văn bản kiến nghị một số vấn đề chính sách liên quan đến phát triển thị trường vốn để gửi đến các cơ quan chức năng. Đương nhiên, còn nhiều vấn đề cần được tiếp tục thảo luận, nhưng thời gian chương trình có hạn, Hội thảo xin được kết thúc tại đây”, TS Lê Minh Nghĩa cho hay.
Hội thảo “Toàn cảnh Thị trường vốn năm 2024 và triển vọng năm 2025”
Thời gian: 08h00 - 12h00, Thứ Sáu, ngày 6/12/2024
Địa điểm: Hội trường tầng 3, Tòa nhà 37 Bà Triệu, Hàng Bài, Hoàn Kiếm, Hà Nội