Bộ Tài chính chỉ ra nguy cơ 'ông lớn' FDI chuyển giá núp bóng lãi vay

Nhiều DN FDI sở hữu dự án có tổng mức đầu tư hàng tỷ USD nhưng vốn chủ sở hữu rất thấp, chủ yếu đi vay để chuyển giá, trốn thuế và báo lỗ triền miên.

DN FDI quy mô vốn "khủng" nhưng chủ yếu đi vay

Chuyển giá là hiện tượng phổ biến trên thế giới, nhất là tại các tập đoàn lớn xuyên quốc gia, để tối ưu lợi nhuận và giảm nghĩa vụ thuế.

Những chiêu thức chuyển giá phổ biến gồm: vay vốn từ công ty mẹ hoặc công ty liên kết với lãi suất cao; kê khai giá nguyên liệu mua từ công ty mẹ ở nước ngoài cao hơn thực tế để đẩy chi phí sản xuất, giảm lợi nhuận; chuyển lợi nhuận thông qua dịch vụ nội bộ như phí tư vấn, nghiên cứu thị trường, phí bản quyền; xuất khẩu hàng hóa với giá thấp cho công ty liên kết, công ty mẹ.

Tại Việt Nam, tình trạng này diễn ra hàng chục năm. Số doanh nghiệp (DN) báo lỗ hàng năm luôn tăng, năm sau cao hơn năm trước, kéo theo phần thu ngân sách từ các nguồn thuế, phí sụt giảm hoặc có tăng trưởng nhưng rất chậm.

Việc DN có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chuyển giá còn khiến chi phí sản xuất nội địa bị đẩy lên cao một cách giả tạo, làm mất cân bằng cạnh tranh giữa DN trong nước và DN nước ngoài. DN nội bị chèn ép về giá cả, nguồn cung nguyên vật liệu và khả năng tiếp cận thị trường xuất khẩu.

Nghi vấn chuyển giá ở khối DN FDI gần đây lại "nóng" khi vốn đăng ký thì "khủng" nhưng vốn góp thực tế từ chủ sở hữu lại rất thấp.

Theo báo cáo mới đây của Bộ Tài chính, tính đến hết tháng 5 năm nay, tổng số dự án FDI còn hiệu lực trên toàn quốc đạt 43.346, với tổng vốn đăng ký hơn 517 tỷ USD. Trong đó, vốn thực hiện lũy kế đạt hơn 331 tỷ USD, tương đương 64,1% tổng vốn đăng ký.

Các dự án FDI mang theo công nghệ hiện đại, góp phần đổi mới công nghệ, tạo động lực cho doanh nghiệp trong nước tăng cường năng lực cạnh tranh.

Tuy vậy, Bộ Tài chính cũng chỉ ra một số điểm yếu trong thu hút và sử dụng vốn FDI, trong đó đặc biệt kể đến hiện tượng một số dự án có tổng vốn đăng ký lên đến hàng tỷ USD nhưng chủ sở hữu chỉ góp phần rất nhỏ, còn lại là vốn vay.

Điều này đẩy chi phí lãi vay và chi phí khấu hao của dự án lên rất cao, khiến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp FDI ở mức thấp. Theo Bộ Tài chính, đây là lỗ hổng để doanh nghiệp FDI thực hiện chuyển giá, trốn thuế.

Thực tế, hiện tượng dự án đầu tư lớn, vay lớn, lỗ cũng rất lớn xảy ra khá nhiều.
Thực tế, hiện tượng dự án đầu tư lớn, vay lớn, lỗ cũng rất lớn xảy ra khá nhiều.

Coca-Cola Việt Nam là một trường hợp điển hình. Hoạt động tại Việt Nam từ năm 1994 nhưng trong gần 20 năm đầu, công ty này liên tục báo lỗ. Khoản lỗ luỹ kế tính tới năm 2012 lên tới 3.768 tỷ đồng, nhưng doanh nghiệp vẫn tiếp tục mở rộng đầu tư. Sau khi điều tra, cơ quan thuế phát hiện Coca-Cola kê khai giá nguyên liệu đầu vào cao hơn thị trường, đồng thời chi trả phí bản quyền lớn cho công ty mẹ ở Mỹ. Năm 2020, Tổng cục Thuế đã quyết định xử phạt Coca-Cola Việt Nam tổng số tiền hơn 821 tỷ đồng.

Hay dự án Tổ hợp hóa dầu Long Sơn (liên doanh với nhà đầu tư Thái Lan SCG Chemicals) có tổng đầu tư đăng ký hơn 5 tỷ USD, khoản vay dự kiến từ các ngân hàng trong và ngoài nước là 3,2 tỉ USD. Riêng Công ty TNHH hóa dầu Long Sơn (thành viên của SCG Chemicals sở hữu 100% vốn), chính thức hoạt động thương mại từ tháng 9 năm ngoái đến hết quý I năm nay, nhưng tổng số lỗ lên đến 10.000 tỷ đồng.

Bên cạnh đó, không ít DN FDI vay vốn từ nước ngoài với lãi suất khai báo cao đến khó tin.

Đơn cử, Công ty Keangnam Vina (Hàn Quốc) từng ký hợp đồng vay vốn từ Kookmin Bank (Hàn Quốc) với lãi suất trung bình khoảng 12%/năm, trong khi ở thời điểm đó, lãi suất vay vốn bằng USD chỉ từ 5-7% mỗi năm. Vì thế, tiền lãi vay của công ty này phải chuyển trả ngân hàng sau 7 năm lên tới 400 triệu USD và chi phí tài chính của việc vay vốn lên đến hơn 2.000 tỷ đồng. Có năm công ty này đạt doanh thu 5.200 tỷ đồng nhưng vẫn báo lỗ 140 tỷ đồng. Sau khi cơ quan thuế vào cuộc, khoản lãi vay lãi suất 12% đã được chủ đầu tư tự khai xuống còn 5-7%.

Ngoài ra, còn nhiều doanh nghiệp FDI khác như Công ty Keangnam Vina, Metro Việt Nam... cũng đã bị ngành thuế phát hiện hành vi lợi dụng chuyển giá để trốn thuế.

"Bịt lỗ hổng" chuyển giá thế nào?

Chuyển giá vẫn là vấn đề nhức nhối hiện nay. Nhiều trường hợp cơ quan thuế không đủ cơ sở để tiếp cận và xác định doanh nghiệp có chuyển giá hay không. Những trường hợp xảy ra tranh cãi trong thanh, kiểm tra làm cho cơ quan thuế mất rất nhiều thời gian, công sức.

Theo ông Nguyễn Văn Toàn, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tình trạng chuyển giá của DN FDI vẫn diễn biến một cách tinh vi, cơ quan chức năng gặp nhiều khó khăn để phát hiện và kiểm soát.

Bộ Tài chính chỉ ra nguy cơ 'ông lớn' FDI chuyển giá núp bóng lãi vay - Ảnh 1

PGS-TS Phạm Thế Anh, Kinh tế trưởng, Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR), cho hay hiện tượng trốn tránh thuế thu nhập DN, tránh thuế thông qua chuyển lãi vay không mới và diễn ra với quy mô ngày càng lớn, phức tạp và tinh vi. Quy định hiện hành cho phép các ngân hàng tự định ra lãi suất đối với khách hàng theo hình thức thỏa thuận. Do đó để xác định có hành vi chuyển giá hay không thì phải tiến hành kiểm toán.

Chuyên gia kinh tế Vũ Đình Ánh nêu quan điểm DN trong nước hay nước ngoài, đã đầu tư kinh doanh là có vay vốn, việc vay là quyền của DN. Nếu chỉ căn cứ vào việc một DN nào đó liên tục báo lỗ vì chi phí tài chính, khấu hao cao nhưng vẫn mở rộng sản xuất, đầu tư mà cho là chuyển giá thì chưa đầy đủ và thiếu tính thuyết phục.

"Chúng ta còn quá nhiều lỗ hổng trong quản lý doanh thu, chi phí thực của DN nên rất khó xác định được lợi nhuận thực, chi phí của DN để chống chuyển giá. Thế nên, phải hoàn thiện pháp luật về chống chuyển giá theo hướng nâng lên thành luật. Theo đó, đưa vào tất cả các nội dung chống chuyển giá, từ phòng ngừa, ngăn chặn, đến phát hiện, xử lý hành vi chuyển giá vào trong luật này", ông Ánh cho hay.

Để kiểm soát tình trạng chuyển giá, PGS.TS Nguyễn Hữu Huân, Giảng viên Đại học Kinh tế TP.HCM, gợi ý cần thay đổi chính sách với các DN FDI, yêu cầu họ phải tăng tỷ lệ nội địa hoá lên 50-60%, tạo điều kiện cho các DN Việt tham gia vào chuỗi cung ứng. Khi đó, các DN nội địa sẽ tự tiến hoá để đáp ứng các yêu cầu ngặt nghèo của các DN FDI, đẩy mạnh ngành công nghiệp phụ trợ và thất thu thuế sẽ giảm đi.

PGS.TS Đinh Trọng Thịnh chỉ ra rằng, điểm yếu của chúng ta hiện nay là khâu kiểm soát, quản lý. Chúng ta không nắm được chính xác hoạt động sản xuất, kinh doanh của các DN FDI, chỉ căn cứ vào báo cáo của họ là chính. Còn với DN, lợi nhuận là trên hết, DN nào cũng cố gắng giảm thiểu đóng thuế để tối ưu lợi nhuận.

Vì vậy, theo ông Thịnh, khi phê duyệt dự án FDI, cơ quan quản lý cần có cơ chế kiểm tra và đánh giá chặt chẽ. Cơ quan cấp phép có thể yêu cầu nhà đầu tư cung cấp cơ chế giá giữa công ty mẹ và các công ty con từ nhiều thị trường, kế hoạch đầu tư kinh doanh có lãi và thuế nộp của DN ra sao để có thể đánh giá tác động nguồn thu trong tương lai. Cùng với đó, cần có sự liên kết, chia sẻ dữ liệu giá trị hàng hóa từ các thị trường giao dịch hàng hóa lớn của quốc tế để xây dựng cơ sở dữ liệu giá.

Ngành thuế cũng cần hoàn thiện hệ thống thông tin, dữ liệu về người nộp thuế. Trên cơ sở thông tin dữ liệu hiện có, ngành thuế cần khẩn trương rà soát lại các DN FDI, các tập đoàn kinh tế kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực xây dựng kế hoạch, xác định rõ phạm vi cần tiến hành các cuộc kiểm tra, thanh tra đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm theo nội dung yêu cầu của chuyên đề chống chuyển giá.

Minh Anh

Theo Vietnamfinance