Công nhận tài sản số: Xóa vùng xám để bước vào giai đoạn mới

Luật Công nghiệp Công nghệ số đã tạo ra bước ngoặt lớn cho thị trường tài sản số trong việc hình thành hành lang pháp lý, chính thức đưa tài sản số ra khỏi vùng xám.

Xóa một vùng xám

Luật Công nghiệp công nghệ số đã chính thức được thông qua vào sáng 14/6, lần đầu tiên định nghĩa và điều chỉnh tài sản số – bao gồm các tài sản được tạo lập, phát hành, lưu trữ và chuyển giao dưới dạng dữ liệu số thông qua công nghệ số trên môi trường điện tử, và được công nhận là tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự.

(Ảnh minh hoạ)  
(Ảnh minh hoạ)  

Theo PGS-TS Nguyễn Hữu Huân, việc công nhận tài sản số chính là một bước ngoặt trong việc hình thành hành lang pháp lý cho thị trường này để phát triển tài sản số và công nghệ số. Bởi điều quan trọng là phải có khung pháp lý thì các thành phần trong thị trường mới có thể hoạt động được. Trước đây, lĩnh vực này vẫn là vùng xám của Việt Nam.

Từ một thị trường phát triển tự phát, thiếu kiểm soát, tài sản số tại Việt Nam giờ đây đã được đặt dưới khuôn khổ luật pháp. Điều này đặc biệt có ý nghĩa khi Việt Nam là một trong những quốc gia có tỷ lệ chấp nhận tài sản số cao nhất thế giới.

Theo ông Huân, hiện có khoảng 20 triệu tài khoản crypto tại Việt Nam – tương đương 20% dân số, cao gấp đôi số tài khoản đầu tư chứng khoán.

Tuy nhiên, sự phát triển mạnh mẽ của thị trường này khi thiếu đi khung pháp lý cũng kéo theo nhiều hệ lụy nghiêm trọng, đặc biệt là các vụ lừa đảo có quy mô lên tới hàng ngàn, thậm chí hàng chục ngàn tỷ đồng. “Chủ yếu những vụ lừa đảo này xảy ra ở vùng nông thôn, nơi người dân có mức độ hiểu biết tài chính thấp. Các đối tượng lừa đảo thường nhắm tới nhóm người dễ tổn thương nhất,” ông Huân chia sẻ.

Trong bối cảnh đó, việc xây dựng một dự luật để quản lý thị trường này không chỉ giúp hợp pháp hóa hoạt động sở hữu và giao dịch tài sản số, mà còn là công cụ quan trọng để siết chặt quản lý, giảm thiểu rủi ro cho nhà đầu tư và xã hội.

“Cần thiết phải có dự luật để quản lý thị trường này, giúp thị trường phát triển một cách bền vững và ổn định hơn,” PGS-TS Huân nhận định.

Với việc tài sản số được chính thức công nhận, tâm lý nhà đầu tư và các bên tham gia thị trường sẽ có nhiều chuyển biến. Theo PGS-TS Nguyễn Hữu Huân, sự thay đổi này sẽ diễn ra theo hai chiều hướng.

Thứ nhất, đối với những tổ chức hoặc cá nhân từng lợi dụng kẽ hở pháp lý để lừa đảo, đây là một “tin xấu”. “Trong thời gian tới sẽ khó lừa đảo người dân hơn, bởi các sàn giao dịch tài sản số và tiền mã hóa phải được cấp phép mới được hoạt động,” ông nhận định.

Hiện nay, phần lớn giao dịch tài sản số tại Việt Nam diễn ra trên các sàn “chui”, sàn tự phát hoặc sàn quốc tế không chịu sự kiểm soát của cơ quan chức năng. Việc yêu cầu các sàn này phải được cấp phép tại Việt Nam sẽ là bước đầu tiên để chấn chỉnh thị trường, tránh thất thoát thuế và ngoại tệ.

“Thống kê cho thấy mỗi năm Việt Nam có lượng giao dịch tài sản số lên tới hơn 100 tỷ USD. Nếu không đánh thuế thị trường này, đó là một khoản thất thu rất lớn, chưa kể tình trạng chảy máu ngoại tệ,” ông Huân cảnh báo.

Đồng thời, việc quản lý chặt chẽ cũng giúp Việt Nam cải thiện vị trí trên bản đồ tài chính quốc tế. Ông cho biết: “Việt Nam vừa rồi bị đưa vào danh sách xám các quốc gia có nguy cơ rửa tiền. Một trong những nguyên nhân chính là do chưa quản lý được thị trường tiền mã hóa và tài sản số. Việc quản lý được thị trường này sẽ góp phần suy giảm tình trạng rửa tiền đáng báo động hiện nay.”

Với các nhà đầu tư chân chính, tâm lý đón nhận luật mới có thể ở mức “trung dung”, như ông Huân miêu tả. “Trước đây họ giao dịch không bị đánh thuế, giờ chuyển sang sàn bị quản lý, có thể sẽ không thích lắm. Nhưng mặt khác, họ sẽ yên tâm hơn vì tài sản và sàn giao dịch được thẩm định bởi Nhà nước, tránh được rủi ro sập sàn hay mất tiền như trước,” ông lý giải.

Ngoài ra, việc tài sản số được luật hóa cũng sẽ giúp nhà đầu tư cảm thấy việc sở hữu và giao dịch là hợp pháp, chứ không còn mang tính “ngoài vòng pháp luật” như trước. Đây là một yếu tố quan trọng để thu hút nhà đầu tư tổ chức, thúc đẩy sự trưởng thành của thị trường.

Từ luật hóa đến phát triển hệ sinh thái số

Theo PGS-TS Nguyễn Hữu Huân, sau khi tài sản số được công nhận, bước tiếp theo là xây dựng hệ sinh thái hoàn chỉnh để hỗ trợ thị trường này phát triển đúng hướng, trong đó việc cần thiết lập các sàn giao dịch nội địa, hoặc cấp phép cho các sàn đang hoạt động ở Việt Nam để và quản lý chặt chẽ. Đây sẽ là nền tảng để phát triển những ứng dụng công nghệ số tiên tiến, như blockchain, NFT hay token hóa tài sản.

Công nhận tài sản số: Xóa vùng xám để bước vào giai đoạn mới - Ảnh 1

Ông Huân dẫn chứng: “Dự thảo về 11 ngành công nghệ mũi nhọn của Việt Nam có bao gồm công nghệ blockchain và tài sản số, yêu cầu xây dựng hệ sinh thái tổng thể cho thị trường này để tiếp tục phát triển, hỗ trợ cũng như khuyến khích doanh nghiệp tham gia các hoạt động nghiên cứu và phát triển”.

Việc token hóa tài sản thực – từ bất động sản đến tác phẩm nghệ thuật – cũng là xu hướng toàn cầu mà Việt Nam cần bắt kịp. “Mình phải dựa theo công nghệ blockchain mà thế giới đang làm – token hóa các tài sản thực thành tài sản số, từ đó có thể giao dịch dễ dàng, xác lập quyền sở hữu, và minh bạch hóa thông tin. Mỗi tài sản sẽ được ‘verified’, chỉ có một token đại diện duy nhất,” ông nhấn mạnh.

Dù vậy, để luật hóa thực sự đi vào cuộc sống, Việt Nam cần tiếp tục ban hành các văn bản dưới luật như nghị định, thông tư hướng dẫn cụ thể. “Khi khung pháp lý rõ ràng và đầy đủ, nó sẽ tạo điều kiện để phát triển thị trường mạnh mẽ hơn trong tương lai,” ông Huân nói.

Từ một thị trường hoạt động trong “vùng xám”, thị trường tài sản số tại Việt Nam đang đứng trước cơ hội “chính danh hóa”, với một khung pháp lý lần đầu tiên được công nhận rõ ràng. Theo PGS-TS Nguyễn Hữu Huân, điều này không chỉ giúp thị trường phát triển bền vững, mà còn giúp bảo vệ nhà đầu tư, giảm rủi ro, chống rửa tiền và ngăn chặn các hành vi lừa đảo tinh vi đã từng gây nhức nhối trong thời gian qua.

Hải Đường

Theo VietnamFinance