Huy động nguồn vốn vay ODA, ưu đãi nước ngoài ngày càng khó khăn

Theo Ủy ban Tài chính - Ngân sách Quốc hội, việc huy động nguồn vốn vay ODA, ưu đãi nước ngoài ngày càng khó khăn. Với vị thế là nước thu nhập trung bình thấp, hiện nay, Việt Nam đang phải tiếp cận các khoản vay gần điều kiện thị trường, các nhà tài trợ cũng chào vay với các điều kiện tài chính kém thuận lợi hơn trước đây. Các khoản vay được ký mới trong giai đoạn này chủ yếu có lãi suất thả nổi.

Dự báo đến cuối năm 2024, nợ công khoảng 39-40% GDP

Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc, chiều 23/10 thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Báo cáo đánh giá giữa nhiệm kỳ thực hiện Kế hoạch tài chính quốc gia và vay, trả nợ công 5 năm giai đoạn 2021 – 2025.

Toàn cảnh phiên họp. Ảnh: Quochoi.vn  
Toàn cảnh phiên họp. Ảnh: Quochoi.vn  

Báo cáo trước Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc cho biết, năm 2023, bối cảnh tình hình thế giới, khu vực tiếp tục biến động mạnh, phức tạp, xung đột Nga - Ucraina kéo dài; áp lực lạm phát lớn, khiến nhiều nền kinh tế chưa thể nới lỏng chính sách tiền tệ để kích thích kinh tế, tăng trưởng toàn cầu còn yếu. Việt Nam tiếp tục duy trì ổn định chính trị - xã hội, kinh tế vĩ mô, kiểm soát được lạm phát. Tuy nhiên, là một nền kinh tế có độ mở cao, nước ta đã phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Tình hình kinh tế - xã hội nói chung có tác động không thuận lợi đến việc triển khai nhiệm vụ ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2023.

Về thực hiện hạn mức bảo lãnh Chính phủ, năm 2023 không cấp mới bảo lãnh cho các dự án vay trong nước và nước ngoài. Bảo lãnh phát hành cho các ngân hàng chính sách tối đa bằng trả nợ gốc đến hạn; riêng đối với Ngân hàng Chính sách xã hội có tăng bảo lãnh phát hành để thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội theo Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội.

Về tình hình vay, trả nợ nước ngoài của quốc gia, dự kiến thực hiện hạn mức vay thương mại nước ngoài của doanh nghiệp, tổ chức tín dụng theo phương thức tự vay tự trả năm 2023 bằng 100% hạn mức được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, cụ thể, ước thực hiện hạn mức vay thương mại nước ngoài trung, dài hạn 7.500 triệu USD, dư nợ vay ngắn hạn tăng khoảng 20% so với cuối năm 2022.

Năm 2024, dự báo tình hình thế giới, khu vực dự báo tiếp tục có biến động phức tạp. Trong nước, Việt Nam có nhiều triển vọng cải thiện tốc độ tăng trưởng kinh tế thông qua thúc đẩy đầu tư công, tiêu dùng, du lịch, tận dụng xu hướng chuyển dịch dòng vốn đầu tư nước ngoài… Tuy nhiên, với mức độ hội nhập và độ mở của nền kinh tế lớn, trước những bất ổn, rủi ro khó đoán định, dự báo nước ta tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức.

Với dự kiến vay, trả nợ của Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh, nợ của CQĐP và nợ nước ngoài tự vay, tự trả của doanh nghiệp, tổ chức tín dụng như trên, trong trường hợp tăng trưởng GDP tích cực đạt chỉ tiêu Quốc hội giao, dự báo đến cuối năm 2024, dư nợ công khoảng 39-40% GDP, nợ Chính phủ khoảng 37-38% GDP, nợ nước ngoài của quốc gia khoảng 38-39% GDP; nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với thu NSNN khoảng 23-24%, nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của quốc gia so với kim ngạch xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ (không bao gồm nghĩa vụ trả nợ gốc ngắn hạn dưới 12 tháng) dự kiến ở mức 8-9%, đảm bảo trong mức trần, ngưỡng được Quốc hội cho phép.

Về sơ kết 03 năm kế hoạch vay, trả nợ công 05 năm giai đoạn 2021-2025, kế hoạch vay, trả nợ công 5 năm giai đoạn 2021-2025 được triển khai thực hiện trong bối cảnh thế giới và khu vực có nhiều biến động phức tạp, khó lường, khó khăn nhiều hơn thuận lợi.

Trong bối cảnh đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, Việt Nam đã sớm kiểm soát được dịch bệnh, duy trì được sự ổn định chính trị - xã hội, nền tảng kinh tế vĩ mô được giữ vững, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn của nền kinh tế, an sinh xã hội, an ninh, quốc phòng được đảm bảo.

Trong giai đoạn 2021-2023, trong bối cảnh các quốc gia tăng vay nợ để bổ sung nguồn lực đối phó với dịch Covid-19 và phục hồi kinh tế, quản lý nợ công của Việt Nam vẫn được điều hành chủ động, chặt chẽ, thận trọng. Các cơ quan chức năng đã chủ động ban hành các văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền nhằm hướng dẫn việc huy động, sử dụng và quản lý nợ công; nghiên cứu, trình Quốc hội ban hành pháp luật để góp phần tháo gỡ vướng mắc trong việc thực hiện dự án đầu tư công nguồn vốn trong và ngoài nước.

Về giải pháp chủ yếu hoàn thành kế hoạch vay, trả nợ công 05 năm 2021-2025, Bộ trưởng Bộ Tài chính cho rằng, cần quán triệt quan điểm, đường lối, tổ chức thực hiện các nội dung liên quan đến tài chính ngân sách và nợ công của Đảng, Nhà nước. Tiếp tục triển khai đầy đủ, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp Quốc hội đã đề ra tại Nghị quyết số 23/2021/QH15, Nghị quyết số 43/2022/QH15…

Ngoài ra, cần chủ động triển khai thực hiện các giải pháp, nhiệm vụ thuộc thẩm quyền của Chính phủ để khắc phục các tồn tại đã nêu liên quan đến huy động vốn vay cho NSNN, giải ngân chậm vốn vay ODA và ưu đãi, mô hình quản lý nợ công và tăng cường công tác quản lý nợ của Chính quyền địa phương.

Vay ODA, vay ưu đãi từ các nhà tài trợ nước ngoài khoảng 57.294 tỷ đồng, chiếm khoảng 10% tổng mức vay.  
Vay ODA, vay ưu đãi từ các nhà tài trợ nước ngoài khoảng 57.294 tỷ đồng, chiếm khoảng 10% tổng mức vay.  

Vay ODA ngày càng khó

Báo cáo thẩm tra, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Lê Quang Mạnh cho biết, Ủy ban Tài chính - Ngân sách nhận thấy, Chính phủ đã có nhiều nỗ lực trong công tác chỉ đạo, điều hành công tác quản lý vay, trả nợ công. Trong bối cảnh trong nước và thế giới có nhiều biến động khó lường ảnh hưởng lớn tới kinh tế trong nước, các chỉ tiêu Quốc hội đề ra tại Nghị quyết số 23/2021/QH15 đã được Chính phủ chủ động kiểm soát.

Theo đó, các mục tiêu đạt kế hoạch đề ra theo Nghị quyết của Quốc hội. Sau 03 năm triển khai thực hiện, các mục tiêu cụ thể cơ bản đều đạt Nghị quyết số 23/2021/QH15 của Quốc hội đề ra; các chỉ tiêu an toàn nợ từng năm giai đoạn 2021-2023 đảm bảo trong các mức trần và ngưỡng an toàn được Quốc hội phê duyệt.

Công tác quản lý nợ công được điều hành chủ động, chặt chẽ, thận trọng. Chính phủ chủ động ban hành các văn bản chỉ đạo, điều hành theo thẩm quyền và tích cực các biện pháp kiểm soát an toàn nợ công và các hạn mức nợ. Công tác huy động vốn đáp ứng nhu cầu chi của NSNN. Trong bối cảnh thu ngân sách vượt kế hoạch, giải ngân đầu tư công chậm hơn dự kiến, Chính phủ đã chủ động điều chỉnh nhu cầu vay, đảm bảo huy động đủ nguồn lực cho NSNN.

Chính phủ đã chú trọng việc đa dạng hóa nguồn vốn và phương thức vay trong nước và ngoài nước; phát hành trái phiếu Chính phủ tập trung vào kỳ hạn dài. Trong đó, vay trong nước dự kiến khoảng 547.085 tỷ đồng, trong đó chủ yếu phát hành TPCP. Kỳ hạn phát hành TPCP bình quân đạt mức 12,6 năm, cao hơn mục tiêu Quốc hội đề ra là từ 9-11 năm tại Nghị quyết số 23/2021/QH15). Kết hợp linh hoạt phát hành để đáp ứng nhu cầu huy động vốn và phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ. Vay ODA, vay ưu đãi từ các nhà tài trợ nước ngoài khoảng 57.294 tỷ đồng, chiếm khoảng 10% tổng mức vay.

Đảm bảo hạn mức bảo lãnh Chính phủ và hạn mức vay về cho vay lại vốn ODA, vay ưu đãi nước ngoài; kiểm soát chặt chẽ cấp bảo lãnh Chính phủ cho các khoản vay trong phạm vi hạn mức bảo lãnh.

Bên cạnh đó, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội Lê Quang Mạnh cho biết, Báo cáo của Chính phủ đã đánh giá thẳng thắn về những vấn đề còn hạn chế trong công tác quản lý vay, trả nợ. Ủy ban TCNS nhận thấy, một số tồn tại, hạn chế nổi bật như sau:

Mặc dù các chỉ tiêu, tỷ lệ an toàn nợ công trong giai đoạn 2021-2023 và dự kiến 2 năm còn lại của giai đoạn trong hạn mức được Quốc hội quyết định. Tuy nhiên, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội lưu ý: Vay để trả nợ gốc có xu hướng tăng; tỷ lệ nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ/thu NSNN năm 2024 đã tiệm cận mức trần theo Nghị quyết của Quốc hội. Ủy ban TCNS đề nghị Chính phủ phân tích kỹ những vấn đề này, có giải pháp điều hành cân đối NSNN chủ động, bảo đảm an toàn nợ công.

Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội Lê Quang Mạnh cho rằng, báo cáo của Chính phủ chưa phân tích kỹ về hiệu quả sử dụng vốn vay, hiệu quả huy động vốn gắn với nhu cầu chi tiêu của ngân sách nhà nước. Qua số liệu quyết toán NSNN hằng năm cho thấy, số chuyển nguồn ngân sách lớn, giải ngân vốn đầu tư công nguồn vốn nước ngoài rất chậm, trong khi ngân sách phải đi vay để bù đắp bội chi và phải chịu lãi suất, trả phí cam kết, cho thấy tình trạng lãng phí nguồn lực. Đề nghị Chính phủ đánh giá tổng thể về vấn đề này.

Việc huy động nguồn vốn vay ODA, ưu đãi nước ngoài ngày càng khó khăn. Với vị thế là nước thu nhập trung bình thấp, hiện nay, Việt Nam đang phải tiếp cận các khoản vay gần điều kiện thị trường, các nhà tài trợ cũng chào vay với các điều kiện tài chính kém thuận lợi hơn trước đây. Các khoản vay được ký mới trong giai đoạn này chủ yếu có lãi suất thả nổi.

Bên cạnh đó, Việc giải ngân vốn ODA, ưu đãi nước ngoài rất chậm, nhiều năm không đạt dự toán…

Trước những hạn chế nêu trên, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Lê Quang Mạnh nhất trí với giải pháp Chính phủ đã nêu, theo đó, tiếp tục thực hiện nghiêm quy định của Đảng, Nhà nước, các nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra trong Nghị quyết số 23/2021/QH15 của Quốc hội. Đồng thời, Chính phủ tích cực, chủ động, triển khai thực hiện các giải pháp về điều hành thuộc thẩm quyền của Chính phủ.

Đề nghị Chính phủ tiếp tục theo dõi, đánh giá kỹ về một số vấn đề nổi lên như: (i) Vay để trả nợ gốc có xu hướng tăng; (ii) tỷ lệ nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ/thu NSNN năm 2024 tăng khá lớn; (iii) tình hình huy động vốn trái phiếu Chính phủ hằng năm trong khi tồn dư NSNN lớn từ số chuyển nguồn tăng thu NSNN năm 2021, 2022, số dư nguồn cải cách tiền lương không thể sử dụng... để trong điều hành ngân sách nhà nước, xây dựng kế hoạch huy động, sử dụng vốn vay tiết kiệm, hiệu quả và đề xuất giải pháp cân đối NSNN chủ động, bảo đảm an toàn nợ công…

Đối với các dự án sử dụng vốn ODA và vay ưu đãi nước ngoài: Đề nghị Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương xem xét nghiêm túc, đánh giá toàn diện về: (i) Nguyên nhân bất cập, vướng mắc kéo dài; (ii) hiệu quả của các dự án; (iii) tính hợp lý của phương án huy động vốn; (iv) trách nhiệm trong huy động, phân bổ, sử dụng vốn ODA... để đề xuất giải pháp thiết thực, xử lý dứt điểm các tồn tại, hạn chế kéo dài, bảo đảm hiệu quả sử dụng vốn vay.

Duy Khánh

Theo Kinh doanh và Phát triển