'Áp lực tỷ giá chưa đủ lớn để đảo chiều chính sách tiền tệ'
Mặc dù tỷ giá USD/VND tăng mạnh trong thời gian gần đây, nhưng theo chuyên gia, Ngân hàng Nhà nước vẫn có đủ cơ sở để kiên định với chính sách tiền tệ nới lỏng.
Trong vòng một tháng qua, tỷ giá USD/VND liên tục tăng mạnh. Tính đến ngày 07/08, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) công bố tỷ giá trung tâm ở mức 25.239 đồng/USD, tăng 7 đồng so với ngày hôm trước. Trên thị trường, giá bán USD tại các ngân hàng thương mại lớn biến động trái chiều và không đồng nhất, trong đó mức cao nhất ghi nhận lên tới 26.500 đồng/USD.
Trước những diễn biến đáng lo ngại này, Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc đã yêu cầu NHNN thực hiện điều hành chính sách tiền tệ một cách linh hoạt, hiệu quả nhằm đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, giữ vững tỷ giá và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.
Áp lực tỷ giá: Không phải yếu tố nội tại
Trao đổi với Tạp chí Đầu tư Tài chính – VietnamFinance về nguyên nhân khiến tỷ giá USD/VND tăng mạnh trong thời gian gần đây, TS. Bùi Lê Minh, Giảng viên Tài chính - Kế toán, Khoa Quản trị Kinh doanh, Đại học FPT, nhận định rằng áp lực chủ yếu đến từ các yếu tố bên ngoài, đặc biệt là những biến động phức tạp trên thị trường quốc tế, thay vì từ nội tại nền kinh tế Việt Nam.

Cụ thể, kể từ sau lần tăng lãi suất gần nhất vào ngày 18/12/2024, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) vẫn duy trì mức lãi suất điều hành cao trong khoảng 4,25–4,5%. Cùng với đó, lợi suất trái phiếu chính phủ Mỹ kỳ hạn 10 năm cũng liên tục dao động quanh mốc 4% – mức cao nhất trong vòng một thập kỷ – khiến đồng USD duy trì sức mạnh tương đối so với nhiều đồng tiền khác.
Ngược lại, Việt Nam tiếp tục theo đuổi chính sách tiền tệ nới lỏng nhằm hỗ trợ phục hồi kinh tế, thông qua việc cắt giảm lãi suất, giãn – hoãn thuế cho doanh nghiệp và đẩy mạnh đầu tư công. Mặc dù điều này tạo ra một số áp lực nhất định lên tỷ giá, song các yếu tố vĩ mô trong nước vẫn được đánh giá là ổn định: lạm phát được kiểm soát, cán cân thương mại duy trì thặng dư và thị trường bất động sản có dấu hiệu phục hồi.
Theo TS. Bùi Lê Minh, dù tỷ giá tăng mạnh trong ngắn hạn, đồng Việt Nam chỉ mất giá khoảng 3,3% so với USD – mức biến động vẫn nằm trong biên độ ±5% theo cơ chế tỷ giá trung tâm do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) áp dụng. Việt Nam hiện vận hành mô hình tỷ giá “trượt có quản lý” (crawl-like arrangement), theo đó tỷ giá trung tâm được NHNN công bố hàng ngày, và tỷ giá thực tế được phép dao động trong giới hạn nhất định quanh mức này.
Tuy nhiên, theo chuyên gia, việc đánh giá biến động tỷ giá chỉ dựa trên cặp VND–USD là chưa đầy đủ. Trong bối cảnh chỉ số DXY – đại diện cho sức mạnh của USD so với rổ tiền tệ lớn khác – đã giảm 10,8% kể từ đầu năm, USD thực tế đang suy yếu trên phạm vi toàn cầu.
"Do đó, việc đồng Việt Nam giảm giá mạnh hơn khi so với các đồng tiền như euro, bảng Anh hay yên Nhật, trong khi chỉ mất giá nhẹ so với USD, có thể được xem như một “biện pháp cân bằng chiến lược”. Động thái này không chỉ giúp Việt Nam duy trì tính cạnh tranh thương mại mà còn hạn chế rủi ro bị Bộ Tài chính Mỹ gắn nhãn "thao túng tiền tệ" – một yếu tố Việt Nam luôn đặc biệt lưu tâm trong điều hành chính sách tỷ giá", ông Minh cho hay
Tỷ giá biến động: Không làm thay đổi chính sách tiền tệ
Trong bối cảnh tỷ giá USD/VND tăng nhanh trong thời gian gần đây, nhiều ý kiến lo ngại về khả năng thay đổi trong định hướng điều hành chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, TS. Bùi Lê Minh cho rằng, NHNN sẽ tiếp tục kiên định với lộ trình nới lỏng, đặc biệt trong bối cảnh mục tiêu tăng trưởng GDP 8% năm 2025.
Theo vị chuyên gia, những biến động tỷ giá gần đây chủ yếu mang tính ngắn hạn và chưa tạo ra áp lực đủ lớn để buộc NHNN phải đảo chiều chính sách. Việt Nam vẫn đang duy trì nhiều điều kiện thuận lợi để tiếp tục chính sách tiền tệ hỗ trợ tăng trưởng, trong đó có thể kể đến nhu cầu nội địa đang phục hồi, dư địa tài khóa còn lớn, và đặc biệt là dòng tín dụng đang tăng trưởng mạnh.
Tính đến ngày 28/7/2025, tổng dư nợ tín dụng toàn hệ thống đã tăng 9,64% so với cuối năm 2024, đạt hơn 17,2 triệu tỷ đồng – tiến gần tới mục tiêu 16% của cả năm. NHNN hiện đang khuyến khích các ngân hàng thương mại giảm chi phí hoạt động, tăng tốc chuyển đổi số và đơn giản hóa thủ tục để tạo điều kiện giảm lãi suất cho vay. Những chính sách này không chỉ hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận vốn tốt hơn mà còn góp phần ổn định niềm tin thị trường trong bối cảnh toàn cầu nhiều biến động.
Một yếu tố then chốt hỗ trợ định hướng chính sách nới lỏng là mặt bằng lạm phát đang được kiểm soát tốt. Chỉ số CPI tháng 7/2025 chỉ tăng 0,11% so với tháng trước, còn CPI trung bình 7 tháng đầu năm tăng 3,26% so với cùng kỳ 2024 – thấp hơn ngưỡng mục tiêu 4–4,5% của Chính phủ. Với lạm phát thấp, tâm lý nắm giữ đồng Việt Nam vẫn ổn định trong dân cư và nhà đầu tư, góp phần hạn chế tác động tiêu cực từ biến động tỷ giá đến thị trường tài chính – tiền tệ.
Cuối cùng, trong bối cảnh nhiều ngân hàng trung ương lớn chuyển sang chính sách tiền tệ nới lỏng, môi trường lãi suất toàn cầu đang trở nên thuận lợi hơn với Việt Nam. Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) đã hạ lãi suất 8 lần kể từ tháng 6/2024 xuống còn 2%, đồng thời tung ra các gói kích thích kinh tế tập trung vào quốc phòng, công nghiệp và tiêu dùng. Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBOC) cũng liên tiếp cắt giảm lãi suất, hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc và hỗ trợ thị trường bất động sản.
Tại Mỹ, Cục Dự trữ Liên bang (FED) đang chịu áp lực cắt giảm lãi suất ngày càng lớn. Số liệu việc làm tháng 7/2025 chỉ ghi nhận 73.000 việc làm mới, thấp hơn nhiều so với kỳ vọng, trong khi tỷ lệ thất nghiệp tăng lên 4,2%. Cùng với sự ủng hộ của một số thống đốc và áp lực chính trị từ Tổng thống Trump, thị trường hiện định giá xác suất FED hạ lãi suất trong tháng 9 tới lên tới hơn 80%.
"Trong bối cảnh đó, kỳ vọng đồng USD suy yếu sẽ giúp giảm bớt áp lực lên tỷ giá Việt Nam đồng. NHNN hiện đang có dư địa điều hành tỷ giá khá chủ động, không chỉ thông qua các công cụ truyền thống như lãi suất, dự trữ ngoại hối và tín phiếu, mà còn đang cân nhắc phát hành trái phiếu bằng USD nhằm kiểm soát dòng vốn và củng cố vị thế tiền tệ quốc gia", ông Bùi Lê Minh đánh giá.

Việc tỷ giá biến động mạnh cũng là cơ hội để Việt Nam tái cơ cấu thị trường xuất khẩu, Hiện tại, hơn 29% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đang phụ thuộc vào thị trường Hoa Kỳ – mức độ được đánh giá là tiềm ẩn rủi ro tập trung cao. Trong bối cảnh đó, việc Việt Nam đồng giảm giá so với các đồng tiền mạnh khác mở ra cơ hội tái cơ cấu thị trường xuất khẩu, hướng đến các khu vực mới nhiều tiềm năng hơn.
Đặc biệt, tại Liên minh châu Âu (EU) – nơi Việt Nam đang được hưởng ưu đãi thuế quan từ Hiệp định EVFTA – đồng Việt Nam đã mất giá khoảng 14% so với đồng euro. Điều này giúp hàng hóa “Made in Vietnam” trở nên rẻ hơn đáng kể, qua đó tăng sức cạnh tranh trong mắt người tiêu dùng châu Âu.
"Song song với xuất khẩu, biến động tỷ giá cũng tác động tích cực đến dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Khi đồng nội tệ yếu đi, các tập đoàn đa quốc gia có thể quy đổi được nhiều Việt Nam đồng hơn khi giải ngân, đồng nghĩa với chi phí đầu tư ban đầu giảm. Điều này tạo động lực cho các doanh nghiệp FDI mở rộng sản xuất, tăng tuyển dụng và đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu từ Việt Nam", TS. Bùi Lê Minh đánh giá.
Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê, trong 7 tháng đầu năm 2025, vốn FDI đăng ký vào Việt Nam đạt 24,1 tỷ USD, trong đó vốn thực hiện đạt 13,6 tỷ USD – mức cao nhất trong vòng 5 năm trở lại đây.
Đối với dòng vốn đầu tư gián tiếp (FII), phản ứng của nhà đầu tư nước ngoài thường nhạy cảm hơn với biến động vĩ mô và rủi ro chính sách. Trong nửa đầu năm 2025, khối ngoại đã bán ròng hơn 41.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, từ đầu tháng 7, xu hướng đã đảo chiều khi nhà đầu tư nước ngoài quay lại mua ròng hàng nghìn tỷ đồng trên thị trường chứng khoán.
"Đây là dấu hiệu tích cực, cho thấy dòng tiền vẫn theo dõi sát sao và sẵn sàng quay trở lại nếu môi trường kinh doanh và kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định. Tuy nhiên, cần lưu ý, việc thiếu số liệu cụ thể về dòng tiền rút ra không đồng nghĩa với việc dòng vốn đã thoát khỏi nền kinh tế", ông Minh nói.
Theo vị chuyên gia, trong nhiều trường hợp, nhà đầu tư ngoại chỉ tạm thời đứng ngoài thị trường, giữ tỷ trọng tiền mặt trong danh mục để chờ đợi thời điểm giải ngân phù hợp – nhất là khi các cuộc đàm phán thương mại và chính sách thuế giữa Việt Nam và Hoa Kỳ vẫn đang tiếp tục được thúc đẩy.