Bỏ room tín dụng: Không phải nới lỏng mà là đổi mới cách giám sát

Bỏ room tín dụng được xem là bước ngoặt quan trọng trong cải cách chính sách tiền tệ, phản ánh quyết tâm của Chính phủ trong việc hiện đại hóa hệ thống ngân hàng, phù hợp với định hướng xây dựng một ngành ngân hàng vận hành theo cơ chế thị trường, minh bạch và cạnh tranh công bằng. Tuy nhiên lộ trình “mở room tín dụng” cũng cần có lộ trình thận trọng, rõ ràng và gắn với các điều kiện nghiêm ngặt nhằm đảm bảo sự ổn định của hệ thống ngân hàng và nền kinh tế.

NHNN cần tự chủ trong việc quyết định, điều hành lãi suất

TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế trưởng BIDV cho biết, một số nghiên cứu trên thế giới cho rằng công cụ hạn mức tăng trưởng tín dụng đối với các NHTM (hay còn gọi là giới hạn tăng trưởng tín dụng nội địa) là một công cụ chính sách tiền tệ, nhưng, đa số các quốc gia xếp chính sách này thuộc nhóm chính sách an toàn vĩ mô. Chính sách hạn mức tăng trưởng tín dụng thường chỉ áp dụng tạm thời trong giai đoạn nền kinh tế có lạm phát cao, bùng nổ về tín dụng… chủ yếu tại các nước đang phát triển hoặc mới nổi như: Trung Quốc, Bangladesh, Pakistan, Philippines, Việt Nam…

Bà Trần Thị Khánh Hiền, Giám đốc Khối Nghiên cứu Công ty Chứng khoán MB cho biết, Trung Quốc là một trong số ít các quốc gia vẫn sử dụng công cụ hạn mức tín dụng (room tín dụng) trong điều hành chính sách tiền tệ, tuy nhiên, công cụ này đã bộc lộ nhiều bất cập khi hệ thống ngân hàng phát triển và đa số các quốc gia đã loại bỏ. Việc áp dụng room tín dụng được thực hiện thông qua việc khống chế tổng dư nợ tín dụng, nhằm kiểm soát tổng lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế .

Các bất cập của cơ chế này tại Trung Quốc trở nên rõ rệt hơn khi Chính phủ nước này siết chặt thị trường bất động sản từ tháng 8/2020 để kiểm soát tình trạng đầu cơ và nợ xấu gia tăng. Trung Quốc đã đưa ra chính sách “ba lằn ranh đỏ” áp dụng cho các nhà phát triển bất động sản, với mục tiêu hạ thấp đòn bẩy tài chính và giảm thiểu rủi ro. Các tiêu chí của chính sách này bao gồm: tỷ lệ nợ phải trả trên tài sản (không bao gồm các khoản ứng trước) tối đa 70%, tỷ lệ nợ ròng trên vốn chủ sở hữu tối đa 100%, tỷ lệ tiền mặt trên nợ ngắn hạn tối thiểu 1 lần.

Chính sách “ba lằn ranh đỏ” đã tác động mạnh mẽ đến lĩnh vực bất động sản, vốn chiếm tới gần 30% GDP của Trung Quốc vào giai đoạn 2020 - 2022. Trước những khó khăn và vỡ nợ của nhiều doanh nghiệp, từ năm 2023 trở lại đây Trung Quốc đang xem xét nới lỏng chính sách này, bao gồm việc kéo dài thời gian ân hạn hoặc cho phép một số công ty tăng đòn bẩy tài chính trở lại.

“Đa số các nền kinh tế phát triển như Mỹ, Hàn Quốc, Nhật bản đều kiểm soát cung tiền và tín dụng thông qua các công cụ chính bao gồm: lãi suất, tỷ lệ dự trữ bắt buộc và nghiệp vụ thị trường mở. Ngoài ra, hệ thống đánh giá tín dụng (credit score) đóng vai trò then chốt trong việc quyết định khả năng tiếp cận tín dụng của người dân và cả doanh nghiệp. Hệ thống đánh giá tín dụng cá nhân và doanh nghiệp này được giám sát, đánh giá định kỳ bởi các tổ chức độc lập. Đây cũng là một những mô hình Việt Nam cần nghiên cứu và phát triển”, bà Hiền thông tin.

Ông Phạm Chí Quang, Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước nói: “Việc gỡ bỏ biện pháp điều hành chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cần được tiến hành thận trọng trên cơ sở phải có giải pháp chính sách thay thế có tính khả thi cao, phù hợp với điều kiện của Việt Nam nhằm đạt được mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống TCTD. Theo đó, trong những giải pháp cần tính tới theo khuyến nghị của nhiều tổ chức quốc tế là NHNN cần tự chủ trong việc quyết định, điều hành lãi suất, vì khi rỡ bỏ chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng, nhiều TCTD sẽ có tốc độ tăng trưởng cao, đẩy mặt bằng lãi suất thị trường lên cao”.

Thưởng - phạt theo cơ chế kỷ luật thị trường kết hợp giám sát nhà nước

Ông Lê Hoài Ân, CFA, Founder IFSS, chuyên gia đào tạo và tư vấn hoạt động ngân hàng, Công ty cổ phần Giải pháp tài chính tích hợp cho rằng, giải pháp mới được đề xuất trong trường hợp xóa bỏ cơ chế room tín dụng là vẫn kế thừa tinh thần kiểm soát vĩ mô tổng thể, nhưng thay đổi cấu trúc điều hành theo ba trục.

Thứ nhất, trao quyền chủ động cho ngân hàng, thông qua việc đánh giá vi mô sức khỏe tài chính của ngân hàng qua một bộ chỉ số, tạm gọi là Comprehensive Bank Strength (CSS). Bộ chỉ số tạo ra một bộ điểm 0 - 100 tổng hợp 10 chỉ số vốn, thanh khoản, nợ xấu, phân tán rủi ro và khả năng chịu sốc. Dữ liệu để tính CSS được lấy trực tiếp từ hệ thống core banking dưới dạng trượt 12 tháng (TTM), giúp phản ánh kịp thời thay đổi thực lực của ngân hàng. CSS ≥ 80 cho phép tăng trưởng tối đa bằng mức tăng gộp + 4 điểm phần trăm, CSS dưới 40 buộc ngân hàng lập tức thu hẹp tăng trưởng và nộp kế hoạch phục hồi vốn trong 90 ngày.

Thứ hai, bổ sung trục chất lượng nhờ dashboard (bảng điều khiển) theo dõi biểu đồ nhiệt cho dòng chảy tín dụng giải ngân trong kỳ - Credit Flow Watch (CFW). NHNN đã nhận thông tin về tình hình giải ngân mới của các ngân hàng phân loại theo nhóm ngành mỗi quý theo Thông tư 35/2015/TT-NHNN, nhưng trước nay hai chỉ tiêu này chỉ dùng cho thống kê thuần túy. Trong mô hình mới, chúng trở thành đầu vào để tính CFW: Nếu vốn đổ vào một ngành tăng nhanh hơn GDP danh nghĩa quá 8 điểm phần trăm, ngành ấy chuyển sang màu đỏ; ngược lại, ngành tăng chậm được gắn màu xanh. Ngành đỏ tự động kích hoạt bộ kiểm soát gồm hệ số vốn đệm (sectoral CCyB) 1 - 2,5%, trọng số rủi ro cộng thêm 25% và trần tăng trưởng 6%/năm. Ngành xanh được giảm trọng số rủi ro 10%, giảm dự trữ bắt buộc 50 điểm cơ bản hoặc hưởng lãi suất tái cấp vốn ưu đãi.

Thứ ba, tăng tốc độ phản ứng: toàn bộ chu trình, từ nộp dữ liệu tới công bố bản đồ nhiệt chỉ gói gọn trong 10 ngày làm việc cuối quý. Độ trễ phân bổ room được rút từ gần hai năm xuống dưới ba tuần. Ngân hàng muốn tăng trưởng nhanh phải chủ động tăng CSS và điều chỉnh danh mục vay khỏi ngành đỏ hoặc cải thiện từ mức vàng lên xanh, thay vì gửi văn bản xin nới hạn mức như hiện tại.

Cũng theo ông Ân, về phía Ngân hàng Nhà nước, hệ thống phân tích sẽ tạo các tình huống mô phỏng với giá tăng 5%, lãi suất liên ngân hàng +150 điểm cơ bản. Nếu kết quả cho thấy CSS của ngân hàng nào dưới ngưỡng 40, hệ thống phát cảnh báo can thiệp sớm, yêu cầu nộp kế hoạch phục hồi trong 90 ngày và tạm thời siết tăng trưởng xuống thấp hơn. Cách làm này giúp Ngân hàng Nhà nước khoanh vùng rủi ro trước khi chúng trở thành điểm mù gây mất an toàn hệ thống.

“Như vậy, toàn bộ chu trình giám sát tín dụng mới dựa trên dữ liệu trực tiếp, chấm điểm tự động và phản ứng tức thời, thay cho vòng xin - duyệt kéo dài như trước. Ngân hàng được thưởng khi quản trị rủi ro tốt và bị phạt ngay khi dưới ngưỡng an toàn - một cơ chế kỷ luật thị trường kết hợp giám sát nhà nước”, ông Ân nói.

Ông Lê Thanh Tùng, Thành Viên HĐQT VietinBank nhận định: “NHNN nghiên cứu hoàn thiện và sử dụng đồng bộ các công cụ điều hành chính sách tiền tệ, quản trị rủi ro, thanh tra giám sát theo thông lệ quốc tế sẽ góp phần hỗ trợ cho việc chuyển đổi sang cơ chế điều hành tăng trưởng tín dụng theo cơ chế thị trường theo chỉ đạo của Chính phủ”.

Ông Ân nhấn mạnh, bỏ room tín dụng không phải là nới lỏng giám sát, mà là đổi cách giám sát. Thay vì chia hạn ngạch cố định, Ngân hàng Nhà nước thiết lập một hệ thống đường ray bằng Chỉ số an toàn vi mô CSS và định hướng vĩ mô theo ngành thông qua CFW. Biên tăng trưởng tín dụng dưới cơ chế mới sẽ co - giãn theo sức khỏe nội tại và chất lượng danh mục, còn dòng chảy tín dụng được định hướng về những lĩnh vực cần ưu tiên cho tăng trưởng bền vững.

Công Minh

Theo Vietnamfinance