DN khát vốn và thị trường thiếu kênh dẫn: Cơ hội cho ngân hàng đầu tư?
Doanh nghiệp Việt vẫn đang tìm kiếm những nguồn vốn dài hạn ổn định, trong bối cảnh tín dụng ngân hàng gánh phần lớn nhu cầu và các kênh như cổ phiếu, trái phiếu chưa phát huy hết tiềm năng, mở ra nhiều bàn luận về vai trò của ngân hàng đầu tư.
Sự phụ thuộc vào vốn tín dụng
Trong nhiều năm qua, tăng trưởng kinh tế Việt Nam gắn chặt với dòng vốn tín dụng ngân hàng. Từ đầu năm 2025, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã giao chỉ tiêu tín dụng cho các ngân hàng trên cơ sở mục tiêu tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống đạt 16% trong năm nay, và dư nợ cung ứng cho nền kinh tế vẫn là động lực chính mà NHNN ưu tiên duy trì trong 2025 để đạt mục tiêu tăng trưởng.

Theo TS Nguyễn Tuấn Anh, giảng viên ngành Tài chính, Khoa Kinh doanh, Đại học RMIT Việt Nam, điều này phản ánh sự phụ thuộc của doanh nghiệp vào vốn vay ngắn –trung hạn thay vì vốn thị trường dài hạn. Đồng thời, đòn bẩy toàn nền kinh tế được Fitch ước khoảng 135% GDP cuối 2024, cao hơn đáng kể so với mức điển hình của các nước cùng hạng xếp hạng, càng cho thấy nhu cầu “đa dạng hóa” nguồn vốn.
Ở phía cầu vốn, khảo sát doanh nghiệp 2023 của World Bank cho thấy doanh nghiệp Việt Nam tự tài trợ 68,4% đầu tư, vốn ngân hàng chỉ 15,7%, và tỷ lệ “dùng ngân hàng để tài trợ đầu tư” chỉ 29,2% - hàm ý khoảng trống lớn cho vốn thị trường có cấu trúc theo TS Tuấn Anh.
Trong khi đó, nhìn về các kênh huy động vốn khác như thị trường cổ phiếu và trái phiếu doanh nghiệp, giới phân tích cho rằng dù đã phát triển mạnh mẽ hơn trước nhưng vẫn chưa đủ sức để thay thế vai trò của tín dụng. Thị trường chứng khoán sau hơn 20 năm hình thành đã trở thành kênh phản ánh kỳ vọng và tâm lý nhà đầu tư, nhưng khả năng trở thành “bệ đỡ vốn” cho nền kinh tế vẫn còn hạn chế.
Huy động vốn qua phát hành cổ phiếu, thực tế, chỉ tập trung ở một nhóm doanh nghiệp quy mô lớn hoặc có lợi thế trong ngành. Phần đông các doanh nghiệp vừa và nhỏ – vốn chiếm tới hơn 97% tổng số doanh nghiệp tại Việt Nam – lại khó tiếp cận kênh này bởi yêu cầu minh bạch tài chính, quy trình niêm yết phức tạp, cùng áp lực từ thị trường công khai.
Tương tự, trái phiếu doanh nghiệp từng bùng nổ giai đoạn 2019 – 2021, trở thành một trong những kênh vốn quan trọng ngoài tín dụng ngân hàng. Song, sự phát triển nóng đi kèm với rủi ro quản trị đã để lại hệ quả nặng nề khiến niềm tin nhà đầu tư suy giảm, thị trường trầm lắng. Dù Chính phủ đã có nhiều biện pháp tái cấu trúc, củng cố khung pháp lý và khuyến khích phát triển lành mạnh, nhưng để trái phiếu doanh nghiệp trở lại đúng vai trò huy động vốn dài hạn cho nền kinh tế vẫn cần thêm thời gian.
Trong bối cảnh đó, nhu cầu về một kênh huy động vốn mới mẻ, hiệu quả và chuyên nghiệp hơn là hoàn toàn hiện hữu. Một cơ chế có thể giúp doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn trung – dài hạn, giảm gánh nặng cho tín dụng ngân hàng, đồng thời đa dạng hóa kênh đầu tư cho nhà đầu tư.
Cánh cửa mới cho thị trường vốn
Theo TS Nguyễn Tuấn Anh, đã đến lúc thí điểm và mở rộng vai trò của ngân hàng đầu tư như một kênh huy động vốn dài hạn bổ sung cho tín dụng, đi kèm các điều kiện hạ tầng thị trường và cơ chế bảo lãnh đặc biệt để chảy được đến doanh nghiệp vừa và nhỏ và doanh nghiệp khởi nghiệp (startup).

“Tôi cho rằng ngân hàng đầu tư sẽ là một cánh cửa mới cho thị trường vốn Việt Nam trong thập kỷ tới, nhưng mức độ thành công phụ thuộc nhiều vào cải cách pháp lý, độ sâu thị trường và năng lực minh bạch của doanh nghiệp”, TS Tuấn Anh cho biết.
Theo đó, về xu hướng chính sách, Luật Chứng khoán sửa đổi (2025), cùng các nghị định mới về phát hành trái phiếu riêng lẻ, đang củng cố nền tảng pháp lý cho ngân hàng đầu tư tham gia sâu vào bảo lãnh phát hành, tư vấn niêm yết, M&A, cấu trúc sản phẩm nợ lai vốn.
Việt Nam cũng đặt mục tiêu nâng hạng thị trường chứng khoán lên mức mới nổi trước 2030, đồng nghĩa yêu cầu về minh bạch, xếp hạng tín nhiệm và sự hiện diện của nhà đầu tư tổ chức sẽ gia tăng.
Đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ và startup, vốn khó tiếp cận tín dụng do thiếu tài sản đảm bảo, TS Tuấn Anh đề xuất mô hình ngân hàng đầu tư theo tầng: (i) bảo lãnh phát hành nhỏ/lô mini và phát hành riêng lẻ có tín dụng tăng cường (bảo lãnh một phần của quỹ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, quỹ bảo lãnh tín dụng địa phương, hoặc các chương trình đồng bảo lãnh) để kéo nhà đầu tư dài hạn như bảo hiểm - quỹ hưu trí; (ii) IPO/UPCoM/niêm yết có điều kiện kết hợp tư vấn quản trị- minh bạch; (iii) sản phẩm nửa nợ nửa vốn như venture debt, mezzanine cho startup giai đoạn tăng trưởng, do ngân hàng đầu tư cấu trúc và phân phối.
Cùng lúc, cần bắt buộc xếp hạng tín nhiệm cho lô phát hành vượt ngưỡng, chuẩn hóa thông tin tài chính và nhà tạo lập thị trường để tăng thanh khoản hậu phát hành.
“Triển vọng ngân hàng đầu tư không chỉ là cơ hội. Thách thức lớn là niềm tin nhà đầu tư sau các vụ đổ vỡ trái phiếu 2022-2023, cùng với thanh khoản thị trường thứ cấp yếu, khiến ngân hàng đầu tư khó phân phối sản phẩm. Ngoài ra, năng lực phân tích- thẩm định rủi ro của nhiều công ty chứng khoán trong nước còn hạn chế, trong khi yêu cầu Basel III và chuẩn mực quốc tế sẽ nâng trần chuyên môn”, ông Tuấn Anh cho biết.
Vị chuyên gia này dự báo ngân hàng đầu tư sẽ trở thành một trụ cột bổ sung song song với ngân hàng thương mại, đặc biệt khi Việt Nam hướng tới một nền tài chính cân bằng hơn giữa tín dụng và vốn thị trường.
Ở một góc nhìn khác, TS Lê Xuân Nghĩa, nguyên Phó chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia, tỏ ra thận trọng với kỳ vọng đặt vào mô hình ngân hàng đầu tư khi cho rằng loại hình này khó có thể trở thành lời giải cho cơn khát vốn của doanh nghiệp.
“Ngân hàng đầu tư lấy đâu ra vốn để cho vay? Họ không được phép huy động tiền gửi, nên buộc phải phát hành trái phiếu. Trong khi tại Việt Nam hiện nay, để phát hành trái phiếu thì lãi suất phải ở mức cao. Lãi suất huy động cao đồng nghĩa lãi suất cho vay còn cao hơn, khi đó doanh nghiệp sẽ xoay xở thế nào?”, TS Nghĩa đặt vấn đề.
Ông cũng nhấn mạnh, về bản chất, ngân hàng đầu tư không phải là ngân hàng phục vụ doanh nghiệp sản xuất – kinh doanh, mà là định chế tài chính hoạt động chủ yếu trên thị trường vốn, với chức năng chính là mua bán chứng khoán như cổ phiếu, trái phiếu.
“Nếu kỳ vọng ngân hàng đầu tư trực tiếp rót vốn cho doanh nghiệp thì e rằng khó khả thi. Bởi phần lớn nhu cầu vốn của doanh nghiệp là đầu tư dài hạn cho máy móc, thiết bị, nhà xưởng. Trong khi đó, với mức lãi suất cao, gánh nặng tài chính sẽ vượt quá sức chịu đựng của họ”, TS Lê Xuân Nghĩa phân tích.