Đứng vòng ngoài chuỗi giá trị tỷ USD: DN Việt bị bỏ lại ngay trên ‘sân nhà’

Dù dòng vốn FDI liên tục tăng nhưng doanh nghiệp nội địa (DDI) vẫn đang ở “vòng ngoài” của chuỗi giá trị. Các doanh nghiệp Việt chủ yếu dừng lại ở vai trò cung ứng bao bì, dịch vụ vận tải, lắp đặt hạ tầng phụ trợ là những công đoạn có giá trị gia tăng thấp và khó tích lũy năng lực kỹ thuật.

Khoảng trống sau những thành tích tỷ USD

Hải Phòng là một trong những trọng điểm thu hút FDI của cả nước. Năm 2024, TP.Hải Phòng thu hút được 4,94 tỷ USD vốn FDI, tăng hơn 40% so với năm trước, vượt xa kế hoạch đề ra và vượt lên vị trí thứ hai cả nước về thu hút FDI.

Dòng vốn FDI đến Hải Phòng không trải đều mà tập trung vào các ngành sản xuất công nghệ cao như điện tử, linh kiện ô tô, cơ khí chính xác… Điển hình là các dự án của LG, Pegatron, Bridgestone, Fuji Xerox… đang biến Hải Phòng thành cứ điểm sản xuất của khu vực châu Á – Thái Bình Dương.

Đây là những lĩnh vực có giá trị gia tăng lớn và tiềm năng tạo lan tỏa mạnh mẽ đến chuỗi cung ứng trong nước. Các nhà đầu tư cam kết gắn bó lâu dài khi liên tục mở rộng sản xuất, xây dựng chuỗi cung ứng chuyên sâu, và có xu hướng chuyển dịch một phần hoạt động R&D vào Việt Nam.

Tuy nhiên, những số liệu từ Hải Phòng cũng cho thấy 1 khoảng cách lớn sau những con số tỷ USD.

Tổ hợp Khu công nghiệp DEEP C - Hải Phòng
Tổ hợp Khu công nghiệp DEEP C - Hải Phòng

Cộng dồn đến hết năm 2024, Hải Phòng có khoảng 1.020 dự án FDI còn hiệu lực, với tổng vốn đầu tư đạt 33,8 tỷ USD. Đáng chú ý, hơn 50% con số này được đầu tư vào ngành công nghiệp hỗ trợ, như sản xuất linh kiện điện tử, máy tính, điện thoại… Tuy vậy, số lượng doanh nghiệp nội địa trong ngành CNHT (DDI) tại Hải Phòng vẫn rất khiêm tốn.

Hải Phòng hiện có gần 27.000 doanh nghiệp đang hoạt động với đa phần là doanh nghiệp siêu nhỏ và nhỏ/nhỏ vừa. Và có rất ít trong số đó đủ năng lực đáp ứng tiêu chuẩn FDI như ISO, RoHS hay kiểm soát chất lượng sản xuất hiện đại.

Thực tế trên cũng giống với khảo sát của Bộ Công Thương cho thấy, cả nước hiện có khoảng hơn 6.000 doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, nhưng tỷ lệ nội địa hóa chỉ đạt khoảng 15,7%.

Báo cáo chuyên đề của HEZA và Hiệp hội Doanh nghiệp Hải Phòng cho thấy, các doanh nghiệp Việt vẫn bị giới hạn bởi ba điểm nghẽn chính: năng lực kỹ thuật chưa đạt chuẩn quốc tế, thiếu thông tin kết nối và không có nền tảng để xây dựng lòng tin với các tập đoàn FDI. Còn DN FDI thì lại “chưa biết tìm đối tác nội địa ở đâu” do thiếu một bản đồ doanh nghiệp phụ trợ số hóa, minh bạch và cập nhật.

Trong khi đó, để tham gia vào chuỗi cung ứng FDI, một nhà cung ứng nội địa cần đạt ít nhất các tiêu chuẩn như ISO 9001, ISO 14001, RoHS, có khả năng kiểm soát chất lượng sản phẩm, quản lý quy trình sản xuất hiện đại và đảm bảo thời gian giao hàng chính xác. Đây là những tiêu chí còn xa vời với đa số doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs) của Hải Phòng.

Theo Luật sư Phạm Hồng Điệp - Chủ tịch HĐQT Công ty CP Shinec, dù dòng vốn FDI liên tục đổ về Hải Phòng, tạo ra những khu sản xuất công nghệ cao quy mô lớn, nhưng doanh nghiệp nội địa (DDI) vẫn đang ở “vòng ngoài” của chuỗi giá trị. Trong chuỗi cung ứng của các tập đoàn như LG, Pegatron, Fuji Xerox, Bridgestone…, các doanh nghiệp Việt chủ yếu dừng lại ở vai trò cung ứng bao bì, dịch vụ vận tải, lắp đặt hạ tầng phụ trợ – những công đoạn có giá trị gia tăng thấp và khó tích lũy năng lực kỹ thuật.

“Sự thiếu vắng các nhà cung ứng bản địa trong các khâu cốt lõi – sản xuất linh kiện, bán thành phẩm, vật liệu kỹ thuật – là dấu hiệu cho thấy mối liên kết FDI – DDI chưa thực chất, thậm chí chưa bắt đầu theo đúng nghĩa của chuỗi giá trị nội địa”, ông Điệp nhấn mạnh..

Ba điểm nghẽn lớn khiến doanh nghiệp nội chưa thể "vào chuỗi"

LS. Điệp chỉ ra ba điểm nghẽn lớn nhất làm gia tăng khoảng cách giữa FDI - DDI tại Hải Phòng:

Thứ nhất, doanh nghiệp nội yếu về kỹ thuật và chuẩn quốc tế. Hầu hết doanh nghiệp DDI – đặc biệt là các SMEs – chưa đạt được các tiêu chuẩn bắt buộc để tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu. Các tiêu chuẩn này không chỉ thể hiện năng lực kiểm soát chất lượng mà còn là điều kiện bắt buộc để FDI xem xét hợp tác. Nhiều doanh nghiệp nội vẫn sản xuất theo kiểu thủ công, không có quy trình vận hành chuẩn hóa, thiếu hệ thống kiểm soát và tối ưu hiệu quả và gần như không có bộ phận R&D.

Thứ hai, thiếu thông tin và công cụ kết nối. Các doanh nghiệp DDI hiện nay không biết FDI cần gì, tiêu chuẩn ra sao, đặt hàng vào thời điểm nào. Trong khi đó, doanh nghiệp FDI lại không có cơ sở dữ liệu tin cậy về năng lực của doanh nghiệp nội. Hải Phòng hiện vẫn thiếu một “bản đồ nhà cung ứng phụ trợ” được số hóa, minh bạch và tích hợp theo ngành nghề, tiêu chuẩn kỹ thuật – điều mà nhiều quốc gia trong khu vực như Thái Lan, Malaysia đã làm từ lâu.

Thứ ba, thiếu lòng tin. Các tập đoàn FDI có yêu cầu rất cao về chất lượng, thời gian giao hàng, khả năng mở rộng quy mô sản xuất. Trong khi đó, không ít doanh nghiệp nội lại vận hành theo tư duy ngắn hạn, thiếu kỷ luật và quản trị lỏng lẻo. Sự khác biệt trong văn hóa kinh doanh, ngôn ngữ chuyên môn và cách làm việc khiến hai khối doanh nghiệp gần như chưa có tiếng nói chung.

Khu công nghiệp Phúc Diễn - Hải Phòng
Khu công nghiệp Phúc Diễn - Hải Phòng

Và thực tế trên đã để lại hệ quả rõ rệt. Doanh nghiệp DDI bỏ lỡ cơ hội tăng trưởng, bị "bỏ lại" trong chính "sân nhà" khi không thể “ăn theo” các đại dự án FDI, trong khi toàn bộ giá trị gia tăng lại rơi vào tay các chuỗi cung ứng ngoại nhập. Ngay cả trong lĩnh vực có nhiều tiềm năng như cơ khí chính xác, điện tử, chế biến vật liệu kỹ thuật, phần lớn các nhà máy FDI vẫn phải nhập khẩu linh kiện từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản thay vì sử dụng nguồn nội địa.

Ngược lại, doanh nghiệp FDI cũng phải chịu chi phí logistics cao, phụ thuộc vào nguồn cung ứng từ nước ngoài, và gặp rủi ro khi chuỗi cung ứng bị gián đoạn. Việc thiếu nhà cung ứng tại chỗ khiến quá trình mở rộng sản xuất bị chậm trễ, giảm khả năng linh hoạt trong sản xuất – điều rất nguy hiểm trong thời đại “thời gian là tiền bạc”.

Trong khi đó, Việt Nam nói chung và các tỉnh thành nói riêng chưa có đầu mối trung gian chuyên trách kết nối DDI – FDI. Không có tổ chức nào chịu trách nhiệm duy trì liên hệ, theo dõi kết quả sau kết nối, hoặc hỗ trợ tư vấn kỹ thuật – pháp lý cho doanh nghiệp nội muốn “thử đơn hàng đầu tiên”.

Thậm chí, theo ông Điệp, việc không có hệ thống phản hồi hai chiều giữa FDI và DDI khiến nhiều hợp tác đổ vỡ ngay từ giai đoạn thử nghiệm, vì doanh nghiệp nội không hiểu lý do bị từ chối, còn doanh nghiệp FDI không có ai đứng ra “dịch” lại yêu cầu về mặt kỹ thuật, pháp lý hay tiêu chuẩn kiểm định.

Thực tế tửi Hải Phòng cho thấy, dù có gần 27.000 doanh nghiệp đang hoạt động, nhưng rất ít trong số này đủ năng lực về tiêu chuẩn kỹ thuật, quản trị sản xuất và năng lực tài chính để tham gia sâu vào chuỗi cung ứng của FDI. Chính vì vậy, nếu không có sự chuẩn bị kịp thời, doanh nghiệp Việt không chỉ bỏ lỡ cơ hội hợp tác, mà còn đứng trước nguy cơ bị các nhà đầu tư FDI phớt lờ trong chiến lược nội địa hóa chuỗi cung ứng.

Ông Vũ Bá Phú – Giám đốc Cơ quan Xúc tiến Thương mại, Bộ Công Thương, cho biết: Ngành công nghiệp hỗ trợ hiện chỉ đáp ứng khoảng 10% nhu cầu nội địa, trong khi chỉ riêng sản xuất công nghiệp đã cần gấp nhiều lần; Tỷ lệ nội địa hóa hiện nay chỉ đạt khoảng 15,7% nếu xem xét riêng các doanh nghiệp Việt; còn nếu tính cả doanh nghiệp FDI đầu tư nội địa thì tỷ lệ là khoảng 36,6%.

Điều này phản ánh rõ rằng hơn 84% nhu cầu linh kiện, phụ tùng vẫn phải nhập khẩu, làm giảm giá trị gia tăng trong nước và khiến FDI chưa đủ tin tưởng vào nguồn cung nội địa.

Ông Kengo Iwahara, Tổng Giám đốc Công ty TNHH Nichias Hải Phòng là doanh nghiệp FDI của Nhật Bản cho biết: “Để trở thành một phần trong chuỗi cung ứng của chúng tôi, họ phải đáp ứng các tiêu chí khắt khe về chất lượng sản phẩm cao và đồng đều, tuân thủ nghiêm ngặt các yêu cầu kỹ thuật và an toàn, giá cả cạnh tranh, giao hàng đúng hạn và hệ thống quản lý minh bạch. Khi đáp ứng được những tiêu chuẩn này, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có cơ hội đáng kể để tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị của chúng tôi”.

Quốc Bảo - Quang Thân

Theo Vietnamfinance