Hà Nội kiến nghị thu hồi 29 dự án chậm tiến độ, vi phạm Luật Đất đai
UBND TP Hà Nội vừa có báo cáo về các dự án vốn ngoài ngân sách có sử dụng đất chậm tiến độ, chậm triển khai, vi phạm pháp luật đất đai trên địa bàn thành phố. Trong đó kiến nghị thu hồi, bãi bỏ quyết định giao đất, cho thuê đất 29 dự án với tổng diện tích 1.844,3 ha đất.
Cụ thể, đối với các dự án chưa được nhà nước giao đất, cho thuê đất, UBND thành phố đã chỉ đạo Sở Kế hoạch và Đầu tư (KHĐT) chủ trì, phối hợp với các sở, ngành thành phố và UBND cấp huyện rà soát, kiểm tra đối với 135 dự án.
Kết quả có 11 dự án đang triển khai theo tiến độ đã được phê duyệt, phê duyệt điều chỉnh; 12 dự án đề nghị loại bỏ khỏi danh sách do trùng lặp, nhà đầu tư đề xuất nghiên cứu khi chưa có ý kiến của UBND thành phố; 38 dự án đã chấm dứt hoạt động dự án theo quy định; 74 dự án UBND thành phố đã có kế hoạch số 235 ngày 21.10.2021 giao Sở KHĐT tiếp tục kiểm tra, rà soát, đề xuất xử lý.
Đối với các dự án đã được nhà nước giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, UBND thành phố chỉ đạo Sở Tài nguyên và Môi trường (TNMT) chủ trì, phối hợp với các sở, ngành thành phố và UBND cấp huyện thanh tra, kiểm tra đối với 404 dự án.
Kết quả, 96 dự án với diện tích 290,9 ha đất, sau thanh tra, chủ đầu tư đã chủ động khắc phục các vi phạm pháp luật đất đai, đề nghị đưa ra khỏi danh sách các dự án chậm triển khai, sử dụng đất có vi phạm.
Đáng chú ý, báo cáo đã kiến nghị trình UBND TP thu hồi, bãi bỏ quyết định giao đất, cho thuê đất 29 dự án với tổng diện tích 1.844,3 ha đất. Bên cạnh đó, 60 dự án với tổng diện tích ̣95 ha đất chậm tiến độ, chậm đưa đất vào sử dụng, UBND thành phố quyết định gia hạn sử dụng đất 24 tháng. Chủ đầu tư phải nộp thêm cho nhà nước khoản tiền tương ứng với mức tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đối với thời gian gia hạn 24 tháng với tổng số tiền 209,346 tỷ đồng.
Ngoài ra, 63 dự án với tổng diện tích 1.426,1 ha đất chậm hoàn thành công tác giải phóng mặt bằng; 20 dự án với tổng diện tích 92,1 ha đất chậm hoàn thành việc thực hiện nghĩa vụ tài chính; 136 dự án có các vi phạm khác, đã kiến nghị và đề xuất các biện pháp xử lý cụ thể tại kết luận thanh tra đối với từng dự án.
Đối với các dự án còn nợ nghĩa vụ tài chính về đất, UBND thành phố có kế hoạch số 235 ngày 21/10/2021 giao Cục thuế thành phố tiếp tục đôn đốc, thu nghĩa vụ tài chính theo quy định. Số liệu tính đến ngày 30/3, UBND thành phố đã chỉ đạo Cục Thuế thành phố kiểm tra, rà soát đối với 170 dự án chậm thực hiện nghĩa vụ tài chính. Kết quả, 136 dự án đã hoàn thành nghĩa vụ tài chính về đất, tổng số tiền là 22.247.039 triệu đồng; 34 dự án còn nợ 3.330.561 triệu đồng (trong đó nợ gốc là 1.590.378 triệu đồng, nợ tiền chậm nộp là 1.758.739 triệu đồng).
Với các dự án liên quan đến điều chỉnh quy hoạch trật tự xây dựng, tại kế hoạch số 235, UBND thành phố giao Sở QH&KT và Sở Xây dựng thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn được giao kiểm tra, đôn đốc, xử lý và đề xuất biện pháp xử lý theo quy định của pháp luật.
UBND thành phố cũng nêu cụ thể về một số dạng vi phạm của các dự án vốn ngoài ngân sách có sử dụng đất chậm tiến độ, chậm triển khai, vi phạm chủ yếu.
Đầu tiên là dạng dự án đã có quyết định chủ trương (chấp thuận chủ trương đầu tư, chấp thuận đầu tư, văn bản giao chủ đầu tư nghiên cứu hoặc giấy tờ có giá trị pháp lý tương đương), nhưng chưa được nhà nước nước giao đất, cho thuê đất, chậm triển khai hoặc không triển khai thực hiện.
Hai là dự án không thực hiện công tác giải phóng mặt bằng, để kéo dài nhiều năm, chủ đầu tư không liên hệ, không phối hợp với chính quyền địa phương để thực hiện.
Bên cạnh đó, có các dự án đã được nhà nước giao đất, cho thuê đất để thực hiện dự án đầu tư mà không được sử dụng trong thời hạn 12 tháng liên tục hoặc tiến độ sử dụng đất chậm hơn 24 tháng so với tiến độ ghi trong dự án đầu tư, kể từ khi nhận bàn giao đất trên thực địa phải đưa vào sử dụng.
Báo cáo cũng nêu dạng dự án chậm hoàn thành nghĩa vụ tài chính; dự án chậm hoàn thành các thủ tục về quy hoạch, đầu tư, đất đai, xây dựng…; dự án chậm tiến độ do điều chỉnh quy hoạch, dự án đầu tư; dự án chậm hoàn thành công tác giải phóng mặt bằng; dự án sử dụng đất sai mục đích, cho thuê, cho mượn đất; chuyển nhượng, góp vốn bằng quyền sử dụng đất không đúng quy định; tổ chức được nhà nước giao, cho thuê đất thực hiện dự án nhưng không quản lý, sử dụng đất, để đất bị lấn chiếm gây tranh chấp, khiếu kiện.