Không phải Hà Nội hay TP. HCM, loạt địa phương của khu vực này mới là nơi có tỷ lệ sở hữu ô tô cao nhất Việt Nam
Khảo sát mức sống dân cư năm 2022, tỷ lệ sở hữu ô tô của khu vực này cao nhất cả nước khi trung bình 10 hộ dân thì sẽ có 9 ô tô.
Tổng cục Thống kê mới đây đã công bố kết quả Khảo sát mức sống dân cư năm 2022. Theo đó, trung bình cứ 100 hộ dân trên cả nước thì sẽ có 6 chiếc ô tô. Tại khu vực thành thị, cứ 100 hộ gia đình sẽ có 9 tô tô và ở khu vực nông thông sẽ có 4 ô tô trên 100 hộ gia đình.
Trong kết quả thống kê này, đáng chú ý nhất chính là tỷ lệ sở hữu ô tô theo vùng kinh tế. Khu vực Đồng bằng sông Hồng với nhiều thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng chỉ đứng thứ hai với ty lệ 8 ô tô trên 100 hộ dân.
Vùng có ô tô trên 100 hộ dân cao nhất cả nước là Tây Nguyên khi cứ 100 hộ dân có đến 9 ô tô. Trong khi nếu xét về thu nhập bình quân nhân khẩu thì Tây Nguyên lại ở nhóm khá thấp, đạt mức 3,2 triệu/nhân khẩu/tháng, chỉ xếp trên Trung du miền núi phía Bắc.
Theo thống kê về tỷ lệ sở hữu ô tô theo vùng kinh tế, xếp sau khu vực Tây Nguyên và Đồng bằng sông Hồng là khu vực Trung du miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung ngang nhau với 6 ô tô trên 100 hộ dân. Ở vùng Đông Nam Bộ, số ô tô trên 100 hộ dân là 5 ô tô, trong khi ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long, con số này chỉ là 2 ô tô, thấp nhất cả nước.
Phân theo nhóm thu nhập, ở nhóm 20% dân số giàu nhất, sẽ có 14 ô tô trên 100 hộ dân. Con số này cao gấp 14 lần nhóm 20% dân số nghèo nhất, khi 100 hộ dân thì chỉ có 1 ô tô.
Tây Nguyên là khu vực có tỷ lệ sở hữu ô tô cao nhất cả nước
Cũng theo kết quả Khảo sát mức sống dân cư năm 2022, ô tô là một trong số loại đồ dùng lâu bền nhất. Việc sử dụng đồ lâu bền phục vụ cuộc sống sinh hoạt hàng ngày là một khía cạnh phản ánh chất lượng đời sống hộ gia đình. Theo khảo sát, năm 2022 trên cả nước có tới 99,9% hộ gia đình có đồ dùng lâu bền. Tỷ lệ này đã đạt 100% ở khu vực thành thị, một số vùng kinh tế (Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung, Đồng bằng sông Cửu Long) và các hộ gia đình có mức thu nhập thuộc nhóm 3 (nhóm trung bình) trở lên.
Trong giai đoạn từ 2012-2020, giá trị đồ dùng lâu bền bình quân của một hộ gia đình tăng dần. Năm 2022 trị giá đồ dùng lâu bền bình quân một hộ là hơn 84 triệu đồng, giảm gần 3,7 triệu đồng so với năm 2020. Việc mua mới đồ dùng lâu bền trong 12 tháng qua cũng phản ánh mức độ thay thế và bổ sung thêm tài sản, thiết bị, phương tiện phục vụ đời sống hộ gia đình.
Năm 2022, tỷ lệ hộ có mua sắm đồ dùng lâu bền trong 12 tháng qua là 23,9%, giảm 10,5 điểm % so với năm 2020. Mặc dù vậy, giá trị giá đồ dùng lâu bền mua mới vẫn tăng lên. Năm 2022, trị giá đồ dùng lâu bền mua mới bình quân một hộ có mua trong 12 tháng qua đạt hơn 46 triệu, tăng hơn 16 triệu (gấp 1,6 lần) so với năm 2020. Điều này cho thấy xu hướng các hộ dân vẫn ưu tiên mua sắm đồ dùng có giá trị cao với thời gian sử dụng lâu dài.
Thống kê cũng cho thấy sự gia tăng đáng kể số lượng đồ dùng lâu bền trong hộ gia đình, chứng tỏ đời sống của hộ dân cư ngày càng được cải thiện, hiện đại và tiện nghi hơn. Tuy nhiên, số lượng đồ dùng lâu bền (ô tô, máy vi tính, máy điều hòa nhiệt độ, bình tắm nước nóng) trên 100 hộ của các hộ dân cư thuộc nhóm nghèo nhất thấp hơn nhiều so với hộ thuộc nhóm giàu nhất. Điều này phản ánh chênh lệch đáng kể về điều kiện sinh hoạt giữa các hộ gia đình.