Khan hiếm vật liệu cao tốc Bắc-Nam: Điều nghịch lý
Ngoài đất có thể sử dụng nguồn khác như có thể dùng phế thải từ mỏ than, tro xỉ nhiệt điện...
Các dự án thành phần đường bộ cao tốc Bắc-Nam phía Đông được Quốc hội, Chính phủ và Bộ Giao thông Vận tải yêu cầu phải hoàn thành trong năm 2022.
Tuy nhiên, theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế và giao thông, mặc dù việc giải phóng mặt bằng đã cơ bản hoàn thành nhưng với việc khan hiếm vật liệu và giá thành tăng cao nếu không sớm được tháo gỡ sẽ ảnh hưởng đến tiến độ hoàn thành các dự án theo yêu cầu đề ra.
Tại buổi tọa đàm với chủ đề: “Khó khăn vật liệu làm cao tốc Bắc - Nam: Thực trạng và giải pháp” do báo Giao thông tổ chức, các chuyên gia, nhà quản lý và các nhà thầu đã bàn giải pháp tháo gỡ việc khan hiếm vật liệu cho các dự án thành phần cao tốc Bắc-Nam.
Các khách mời tham gia tọa đàm. Ảnh: Báo Giao thông |
Khảo sát đủ, thi công thiếu
Ông Lê Quyết Tiến, Phó Cục trưởng Cục QLXD&CLCTGT, Bộ GTVT cho biết, theo hồ sơ thiết kế kỹ thuật, nhu cầu vật liệu đất đắp (sau khi đã điều phối vật liệu dọc tuyến) cho toàn bộ 11 dự án dự án thành phần cao tốc Bắc-Nam khoảng 52 triệu m3.
Hiện có 6/11 dự án đang triển khai. Trong đó, 3 dự án Cao Bồ- Mai Sơn, Cam Lộ- La Sơn và Cầu Mỹ Thuận 2 cơ bản hoàn thành phần đất đắp nên cơ bản không vướng các vấn đề liên quan đến vật liệu.
Ba dự án còn lại là Mai Sơn - QL45, Mỹ Hảo - Phan Thiết và Phan Thiết- Dầu Giây bắt đầu xảy ra tình trạng khan hiếm vật liệu.
Theo quy luật cung cầu, trước khi triển khai dự án, nhu cầu không có, giá vật liệu theo địa phương công bố. Khi có dự án, nhu cầu lớn, dẫn đến khan hiếm nên xảy ra hiện tượng đẩy giá vật liệu lên cao.
Theo số liệu khảo sát mỏ vật liệu của các đơn vị Tư vấn thiết kế, tổng số lượng mỏ cung cấp cho 11 dự án khoảng 143 mỏ. Trong đó bao gồm 81 mỏ đang khai thác (tổng trữ lượng khoảng 63,2 triệu m3), 12 mỏ đã hết thời hạn khai thác đang chờ gia hạn (tổng trữ lượng 28,8 triệu m3) và 82 mỏ trong quy hoạch nhưng chưa cấp phép khai thác (tổng trữ lượng khoảng 101,3 triệu m3), đảm bảo cung cấp đủ nhu cầu vật liệu đất đắp cho toàn bộ 11 dự án cao tốc Bắc – Nam phía Đông giai đoạn 2017 - 2020.
Ở góc độ quản lý dự án, ông Hoàng Tuấn Khoát, Phó giám đốc Ban QLDA 7 chia sẻ, trong quá trình triển khai dự án, đơn vị có làm việc với các chủ mỏ về rà soát lại chất lượng, lắp đặt thêm thiết bị công nghệ nâng cao chất lượng sản phẩm. Riêng đối nguồn vật liệu cát xây dựng, dự án có nhu cầu 0,6 triệu m3, là nguồn lấy từ sông Dinh, Ninh Thuận. Sắp tới đây khi triển khai dự án thành phần đoạn Cao Lâm – Vĩnh Hảo thì khả năng nguồn cát bê tông sẽ có thể tăng giá và tăng giá một cách đột biến.
"Hiện nhu cầu toàn dự án 7 cần 8 triệu m3 vật liệu. Trong khi đó, thực trạng hiện nay các mỏ đã được cấp phép khai thác chỉ được khoảng hơn 1 triệu m3. Như vậy nguồn cung cấp đang thiếu nghiêm trọng. Hiện nay địa phương đang tổ chức đấu giá và khả năng sắp tới đây các mỏ đáp ứng được nhu cầu của dự án khoảng hơn 4 triệu m3 nếu tính cả 3 nguồn: các mỏ đã có đủ giấy phép khai thác, các mỏ đã chuẩn bị hoàn thiện giấy phép khai thác và các mỏ mới đấu giá", ông Khoát thông tin.
Ông Khoát kiến nghị các địa phương đẩy nhanh việc cấp phép đối với những mỏ hiện nay đã khai thác và nâng công suất các mỏ. Những mỏ đang hoàn thiện thủ tục cấp phép thì xem xét rút ngắn quy trình, nếu vượt thẩm quyền thì địa phương phải có kiến nghị Chính phủ và các bộ, ngành liên quan xem xét tháo gỡ....
Là một đơn vị có vai trò tổng tư vấn cho dự án đường bộ cao tốc Bắc – Nam phía Đông, ông Võ Hoàng Anh, đại diện Tổng công ty Tư vấn thiết kế giao thông vận tải (TEDI) cho hay, vấn đề khan hiếm vật liệu nếu không có giải pháp căn cơ thì không chỉ riêng dự án cao tốc Bắc - Nam mà tất cả các dự án trọng điểm khác cũng sẽ vướng vào tình trạng khó khăn này.
“Về quy trình khảo sát thiết kế, phải khẳng định không riêng TEDI mà các đơn vị khác cũng đã làm đúng trách nhiệm đảm bảo tính khả thi để triển khai dự án. Tuy nhiên, thực tế không giống như lúc chuẩn bị. Nhiệm vụ khảo sát về vị trí chất lượng, trữ lượng, khối lượng tại các dự án từ cơ quan quản lý của Bộ Giao thông Vận tải tới ban quản lý dự án, chủ đầu tư đã thẩm định rất kỹ, khẳng định không thiếu vật để thi công dự án Bắc - Nam và các dự án khác”, ông Võ Hoàng Anh chia sẻ.
Nhấn mạnh đất nước ta ¾ là đồi núi phân bố khắp chiều dài đất nước, không thể thiếu được vật liệu, ông Võ Hoàng Anh cho rằng, việc thiếu cục bộ có liên quan đến vấn đề quản lý, thực thi.
"Việc thiếu hụt ở một số mỏ vật liệu đang khai thác là sự thực. Nguyên nhân là do nhu cầu lớn, trong khi thời gian thực hiện ngắn. Ở đây đòi hỏi phải có giải pháp ở tầm vĩ mô. Tiến độ đắp nền chỉ trong 3- 4 tháng, rất gấp, trong khi quy trình cấp phép mỏ ít nhất phải mất 6 tháng tới hơn 1 năm. Bản thân các nhà thầu có lẽ cũng chưa lường được.
Khi đấu thầu, các nhà thầu đi khảo sát thực tế thì nguồn cung ứng vật liệu diễn ra bình thường. Bản thân chủ mỏ, địa phương cũng chưa lường được việc dự án cần cả triệu m3 mới đủ cung ứng, tức là khoảng 200-300 nghìn khối/ngày.
Có thể khẳng định, về phần khảo sát trữ lượng, chất lượng là đảm bảo và việc khan hiếm vật liệu chỉ thiếu cục bộ chứ không phải diện rộng", đại diện TEDI nói rõ.
Sử dụng các nguồn khác thay thế
Với chức năng là đơn vị quản lý nhà nước trong lĩnh vực khai thác tài khoáng sản, ông Lại Hồng Thanh, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Địa chất và Khoáng sản (Bộ Tài nguyên và Môi trường) cho biết, theo quy định Luật Khoảng sản, các loại khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường như cát sỏi, đất sét, đất đắp đường, đá vôi...thuộc thẩm quyền cấp phép của UBND cấp tỉnh.
Theo đó, UBND cấp tỉnh hoàn toàn có thể xem xét điều chỉnh, bổ sung các mỏ khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường nhằm đáp ứng nguyên vật liệu phục cụ cho dự án phát triển kinh tế- xã hội.
Về vấn đề tăng giá vật liệu xây dựng, ông Lại Hồng Thanh cho biết, với hiện tượng các chủ mỏ tăng giá, các địa phương cần lưu ý, tiền cấp quyền khai thác khoáng sản một năm được điều chỉnh 6 tháng/lần. Do đó, UBND các tỉnh có thể điều chỉnh khung giá tài nguyên cho hợp lý với thực tế. Sau khi đã điều chỉnh vẫn thấy tăng giá chênh lệch thì hoàn toàn có quyền xem xét và xử lý.
Ông Thái Duy Sâm, Tổng Thư ký Hội Vật liệu xây dựng Việt Nam đánh giá, để đẩy nhanh tiến độ cung cấp vật liệu cho các dự án thành phần cao tốc Bắc - Nam, trước mắt nên đề xuất Chính phủ cho phép địa phương thực hiện để các chủ đầu tư, nhà thầu chủ động khai thác và đảm bảo tiến độ dự án trọng điểm.
“Ngoài đất còn có thể sử dụng nguồn khác như có thể dùng phế thải từ mỏ than. Ngoài ra, Việt Nam cũng còn nguồn chất thải tro xỉ từ các nhà máy nhiệt điện. Bộ Xây dựng vừa qua cũng đã công bố tiêu chuẩn cho phép tro xỉ làm nền đường.
Hay các mỏ đá khai thác ngoài đá dăm, đá nghiền bê tông cũng có thể tận dụng; sử dụng nguồn phế thải tháo dỡ từ các công trình xây dựng… Nếu tận dụng được những nguồn này vừa tiết kiệm lại giảm thiểu ô nhiễm môi trường”, ông Thái Duy Sâm đề nghị.
Để giải quyết tình trạng trên, ông Lê Quyết Tiến, Phó Cục trưởng Cục Quản lý xây dựng và Chất lượng công trình giao thông thông tin, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ GTVT đã và đang thực hiện nhiều giải pháp để đảm bảo tiến độ thực hiện dự án.
Theo đó, lãnh đạo Bộ GTVT đã làm việc với lãnh đạo các tỉnh nơi có dự án đi qua, đề nghị UBND các tỉnh quan tâm, ưu tiên tạo mọi điều kiện thuận lợi để đẩy nhanh tiến độ hoàn tất các điều kiện, thủ tục còn thiếu cho các mỏ đã được cấp phép nhưng chưa khai thác, cấp phép khai thác cho các mỏ đã có trong quy hoạch. Đồng thời, nâng công suất khai thác mỏ, gia hạn giấy phép mỏ để đảm bảo đáp ứng đủ nhu cầu vật liệu phục vụ thi công dự án.
Bộ GTVT cũng đề nghị các địa phương chỉ đạo các Sở, ban, ngành và các địa phương có liên quan thực hiện tốt việc quản lý nhà nước về giá vật liệu xây dựng; có giải pháp, chế tài kịp thời và phù hợp để chống độc quyền, đầu cơ, tùy tiện nâng giá vật liệu xây dựng.
Phía các Ban quản lý dự án, ông Lê Quyết Tiến cho biết, Bộ GTVT đã yêu cầu chỉ đạo Tư vấn tiếp tục khảo sát các khu vực lân cận tuyến để tìm kiếm các mỏ có đủ điều kiện về chất lượng, trữ lượng, thực hiện các thủ tục đảm bảo đủ điều kiện khai thác vật liệu đắp’. Cùng đó, lập phương án điều phối đất để tận dụng ngay vật liệu đủ tiêu chuẩn đắp nền từ các vị trí đào trên tuyến điều phối sang để đắp các đoạn nền đắp, ưu tiên các đoạn phải gia tải xử lý nền đất yếu.