Cần làm rõ khái niệm và phân loại tài sản số để tránh rủi ro
Ngày 9/5/2025, tại phiên thảo luận về dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số, nhiều đại biểu Quốc hội đã lên tiếng đề nghị cần định nghĩa rõ ràng và phân loại cụ thể các nhóm tài sản số nhằm đảm bảo cơ sở pháp lý, nghĩa vụ thuế và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan.
Đại biểu Thạch Phước Bình (Phó Trưởng đoàn ĐBQH tỉnh Trà Vinh) cho rằng việc chưa phân định rạch ròi giữa các khái niệm như tài sản số, tài sản mã hóa, dữ liệu số... đang gây ra những khó khăn cho công tác quản lý nhà nước và có nguy cơ dẫn đến thất thu thuế. Ông nhấn mạnh: “Chúng ta không thể quản lý hiệu quả nếu vẫn tiếp tục gọi chung chung là ‘tài sản số’ mà không có sự phân biệt rõ ràng về bản chất, chức năng và giá trị pháp lý”.
Theo đại biểu Thạch Phước Bình, tài sản số có thể phân thành 5 nhóm: (1) Dữ liệu số có thể định danh cá nhân gắn với quyền riêng tư được điều chỉnh bởi pháp luật dữ liệu cá nhân; (2) Dữ liệu phi cá nhân gồm dữ liệu đã được phi cá nhân hóa hoặc không gắn danh tính con người có thể chia sẻ, lưu trữ, kinh doanh; (3) Phần mềm và mã nguồn bao gồm phần mềm thương mại, mã nguồn mở, các thuật toán mô hình AI có thể cấp phép hoặc chuyển giao; (4) Nội dung số có tính chất sở hữu trí tuệ như ảnh, video, âm thanh, sách điện tử có thể là tài sản vô hình định giá được; (5) Tài sản số có thể định giá được bao gồm NFT, tài sản số trên nền tảng Blockchain, dữ liệu huấn luyện AI, mô hình AI đã được kiểm định.
Đồng quan điểm, đại biểu Đồng Ngọc Ba (Bình Định) cho biết dự thảo luật còn thiếu các tiêu chí cụ thể để xác định đâu là tài sản số có thể giao dịch, định giá và chịu trách nhiệm thuế. Trong khi đó, đại biểu Lã Thanh Tân (Hải Phòng) đề nghị nên bổ sung khái niệm “tài sản số” như một dạng sản phẩm công nghệ số thứ phát, được hình thành từ dữ liệu hoặc các hoạt động số hóa, để phân biệt với tài sản ảo hay hàng hóa thông thường.

Dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số hiện gồm 7 chương, 57 điều, là một trong những văn bản pháp lý đầu tiên đặt nền móng cho việc phát triển công nghiệp công nghệ số tại Việt Nam, bao gồm các quy định về dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo, nền tảng số, tài sản số và hạ tầng công nghệ số. Đặc biệt, luật có đề cập tới việc xây dựng chiến lược quốc gia về nghiên cứu, phát triển và ứng dụng AI.
Theo các chuyên gia, việc ban hành khung pháp lý cho tài sản số không chỉ góp phần kiểm soát thị trường, giảm thiểu rủi ro rửa tiền, lừa đảo, mà còn mở ra cơ hội để Việt Nam phát triển thành trung tâm công nghệ tài chính (fintech) tại châu Á. Dữ liệu từ Chainalysis cho thấy Việt Nam hiện đứng thứ hai thế giới về tỷ lệ người sở hữu tài sản số, với khoảng 20 triệu người tham gia và tổng giá trị giao dịch tài sản mã hóa ước đạt 120 tỷ USD mỗi năm.
Tuy nhiên, luật sư Nguyễn Tiến Lập, chuyên gia chính sách công, lưu ý rằng xây dựng khung pháp lý cho tài sản số là vấn đề cấp bách nhưng không thể nóng vội. “Chúng ta cần phân loại chính xác từng loại tài sản – từ token tiện ích, token chứng khoán, đến tài sản NFT hay tài sản gắn với dữ liệu – để từ đó xác định được quyền sở hữu, nghĩa vụ thuế và trách nhiệm bảo mật phù hợp”, ông nói.
Nhiều đại biểu cũng kiến nghị Chính phủ sớm ban hành các hướng dẫn liên quan đến kế toán, kiểm toán và định giá tài sản số, đồng thời phối hợp với các cơ quan thuế để xây dựng cơ chế quản lý linh hoạt nhưng chặt chẽ, giúp khai thác hiệu quả tiềm năng kinh tế số, đồng thời bảo vệ người tiêu dùng và nhà đầu tư.
Dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số dự kiến sẽ được tiếp tục lấy ý kiến và hoàn thiện trước khi được Quốc hội xem xét thông qua vào cuối năm 2025.