Cắt giảm 1.200 nhân sự, chi phí tăng, VIB vẫn báo lãi hơn 5.000 tỷ sau 6 tháng

Trong quý II/2025, VIB báo lãi trước thuế gần 2.596 tỷ đồng, tăng 23% so với cùng kỳ, nhờ cắt giảm 44% chi phí dự phòng rủi ro và tăng thu nhập ở loạt mảng phi lãi.

Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam (VIB, mã: VIB, sàn HoSE) vừa công bố báo cáo tài chính quý II/2025 VIB ghi nhận lợi nhuận trước thuế đạt 2.596 tỷ đồng và lợi nhuận sau thuế đạt 2.076 tỷ đồng, đều tăng 23,4% so với cùng kỳ năm ngoái.

Trong quý II/2025, VIB báo lãi trước thuế gần 2.596 tỷ đồng, tăng 23% so với cùng kỳ, nhờ cắt giảm 44% chi phí dự phòng rủi ro và tăng thu nhập ở loạt mảng phi lãi.
Trong quý II/2025, VIB báo lãi trước thuế gần 2.596 tỷ đồng, tăng 23% so với cùng kỳ, nhờ cắt giảm 44% chi phí dự phòng rủi ro và tăng thu nhập ở loạt mảng phi lãi.

Lũy kế 6 tháng đầu năm, lợi nhuận trước thuế đạt 5.016 tỷ đồng, tăng 8,9%; lợi nhuận sau thuế đạt 4.013 tỷ đồng, hoàn thành gần 46% kế hoạch lợi nhuận năm.

Trong quý, tổng thu nhập hoạt động (TOI) của ngân hàng tăng 1,5%, lên 5.117 tỷ đồng; trong khi chi phí hoạt động cũng tăng thêm 4,4%, từ 1.806 tỷ đồng lên 1.886 tỷ đồng, khiến cho lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh dường như đi ngang trong kỳ, thu về 5.117 tỷ đồng.

Tuy nhiên, nhờ cắt giảm tới 43,7% chi phí dự phòng rủi ro tín dụng từ 1.130 tỷ đồg xuống còn 636 tỷ đồng đã giúp cho lợi nhuận trước thuế quý II của VIB tăng trưởng so với cùng kỳ.

Xét về cơ cấu, thu nhập mảng kinh doanh chính ghi nhận sụt giảm, cụ thể thu nhập lãi thuần giảm 8,1%, từ 4.317 tỷ đồng trong quý II/2024 về còn 3.969 tỷ đồng. Nguyên nhân do thu nhập lãi và các khoản thu nhập tương tự tăng hơn 8% trong kỳ, trong khi chi phí lãi và các chi phí tương tự tăng lên gần 27%. 

Ngược lại, thu nhập từ các mảng ngoài lãi lại tăng trưởng mạnh, đạt 1.148 tỷ đồng, tăng gần 59%. Trong đó, hoạt động dịch vụ đem về 401 tỷ đồng (tăng 8,3%) và kinh doanh chứng khoán đạt 517 tỷ đồng (tăng 71%). Mảng kinh doanh ngoại hối và đầu tư chứng khoán lần lượt tăng trưởng 323,2% và 403,9%, thu về 108 tỷ và 121 tỷ đồng. Lợi nhuận từ góp vốn, mua cổ phần tuy có giảm nhưng không đóng góp đáng kể vào cơ cấu thu nhập.

Tính đến cuối tháng 6, VIB đã cắt giảm 1.244 nhân viên, đưa số lượng nhân sự về 10.492 người, giảm 6,6% so với cùng kỳ năm ngoái. Chi phí bình quân tháng nhân viên ngân hàng tăng 10,5%, từ 33,9 triệu đồng lên 37,5 triệu đồng, nằm ở tầm trung so với các ngân hàng trong hệ thống hiện nay.

Về chất lượng tài sản, số dư nợ xấu của ngân hàng tăng 11,3% trong 6 tháng đầu năm, lên 12.708 tỷ đồng, đưa tỷ lệ nợ xấu (nợ nhóm 3 đến nhóm 5) từ 3,52% lên 3,57% tổng cho vay khách hàng của VIB. 
Về chất lượng tài sản, số dư nợ xấu của ngân hàng tăng 11,3% trong 6 tháng đầu năm, lên 12.708 tỷ đồng, đưa tỷ lệ nợ xấu (nợ nhóm 3 đến nhóm 5) từ 3,52% lên 3,57% tổng cho vay khách hàng của VIB. 

Theo báo cáo tài chính ngân hàng, tính đến cuối tháng 6, thu nhập bình quân hằng tháng của cán bộ nhân viên là 35 triệu đồng, tăng 13,23% so với cùng kỳ năm 2024.

Tính đến ngày 30/6/2025, tổng tài sản của VIB đạt 530.909 tỷ đồng, tăng 7,7% so với đầu năm. Cho vay khách hàng tăng 9,9%, đạt 356.066 tỷ đồng, chủ yếu đến từ bốn phân khúc trọng điểm gồm bán lẻ, doanh nghiệp, SME và định chế tài chính.

Mảng bán lẻ tiếp tục giữ vai trò chủ lực nhờ các sản phẩm vay linh hoạt, quá trình số hóa mạnh và chiến lược lấy khách hàng làm trung tâm. Ở mảng SME và doanh nghiệp, ngân hàng đẩy mạnh mở rộng tín dụng có chọn lọc, ưu tiên dòng vốn lưu động phục vụ sản xuất – kinh doanh trong môi trường lãi suất thấp.

Tiền gửi khách hàng đạt 304.392 tỷ đồng, tăng 10,2%. Đáng chú ý, tỷ lệ CASA và tài khoản siêu lợi suất tăng 51% so với đầu năm, phản ánh hiệu quả trong chiến lược tối ưu dòng tiền nhàn rỗi.

Về chất lượng tài sản, số dư nợ xấu của ngân hàng tăng 11,3% trong 6 tháng đầu năm, lên 12.708 tỷ đồng, đưa tỷ lệ nợ xấu (nợ nhóm 3 đến nhóm 5) từ 3,52% lên 3,57% tổng cho vay khách hàng của VIB. 

Lợi nhuận trước thuế tại VIB qua các quý
Lợi nhuận trước thuế tại VIB qua các quý

Ngân hàng cho biết danh mục cho vay của VIB với hơn 75% dư nợ thuộc phân khúc bán lẻ và SME – trong đó trên 90% khoản vay bán lẻ có tài sản đảm bảo là bất động sản pháp lý đầy đủ, tập trung tại các khu vực đô thị lớn. 

Bên cạnh đó, các chỉ số quản trị an toàn vẫn duy trì ở mức tối ưu, trong đó tỷ lệ an toàn vốn (CAR) Basel II đạt 12,0% (quy định: trên 8%), hệ số cho vay trên tổng tiền gửi (LDR) ở mức 77% (quy định: dưới 85%), hệ số nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn 23% (quy định: dưới 30%) và hệ số nguồn vốn ổn định ròng theo Basel III (NSFR) 111% (chuẩn Basel III: trên 100%).

Quốc Lâm

Theo Tài chính doanh nghiệp