Chấp thuận chủ trương đầu tư: Thủ tục '8 không', cần bãi bỏ?
Thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư, đang là 1 chủ đề tranh cãi. Một bên cho rằng việc quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư là cơ sở để xác lập dự án, qua đó xác định rõ ràng các thông tin. Còn một bên khác lại cho rằng chủ trương chấp thuận đầu tư là thủ tục có đến 8 không và phải bãi bỏ chứ không sửa đổi.
Chấp thuận chủ trương đầu tư: Thủ tục "8 không"
Kiến nghị bãi bỏ các rào cản, tắc nghẽn thể chế, ngăn cản các doanh nghiệp tư nhân trong nước gia nhập thị trường, tự do kinh doanh, TS. Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương cho rằng, thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư là một trong những quy định "đủ chỉ tiêu để bãi bỏ ngay".
Theo ông Cung, đây là thủ tục có đến "8 không": không rõ mục tiêu quản lý, không rõ ràng, không cụ thể, không hợp lý, không minh bạch, không hiệu lực, không hiệu quả, không thể tiên liệu trước và chồng chéo, trùng lặp với nhiều quy định khác.
Do đó, người chắp bút viết Luật Doanh nghiệp thẳng thắn kiến nghị cần phải đập bỏ, chứ không phải sửa đổi, hoàn thiện thêm.

Về bản chất, quy định chấp thuận chủ trương đầu tư là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận về mục tiêu, địa điểm, quy mô, tiến độ, thời gian thực hiện dự án, nhà đầu tư hoặc hình thức lựa chọn nhà đầu tư và các cơ chế, chính sách đặc biệt (nếu có) để thực hiện dự án đầu tư.
Nhìn lại quá khứ, ông Cung cho biết, trước năm 2005, pháp luật về FDI và đầu tư trong nước hoàn toàn tách biệt. Đầu tư trong nước không cần chấp thuận chủ trương đầu tư.
Tuy nhiên, cũng trong năm này, Chính phủ xây dựng luật đầu tư chung, chuẩn bị cho gia nhập WTO. Trước yêu cầu quản lý FDI theo dự án và tạo rào cản, hạn chế gia nhập thị trường Việt Nam đối với đầu tư nước ngoài, pháp luật quy định các doanh nghiệp FDI phải có dự án đầu tư được chấp thuận mới được đăng ký thành lập doanh nghiệp.
Với yêu cầu phải đối xử bình đẳng giữa các khu vực doanh nghiệp, các nhà đầu tư trong nước cũng phải có chấp thuận chủ trương đầu tư, nhưng không yêu cầu phải có trước khi thành lập doanh nghiệp.
Như vậy, chấp thuận chủ trương đầu tư là một "phiên bản" được đơn giản hóa của cấp phép FDI từ năm 2005. Mặc dù vậy, trong khi các thủ tục đối với doanh nghiệp FDI rất đơn giản, thuận lợi, thì đối với đầu tư trong nước lại là gánh nặng về chi phí, thời gian và thủ tục hành chính xin - cho, hoàn toàn không cần thiết.
Ông Cung dẫn chứng, hồ sơ đề nghị chấp thuận chủ trương đầu tư rất phức tạp, rối rắm và đưa ra nhiều yêu cầu. Điều này khiến đại đa số doanh nghiệp nhỏ và vừa không có khả năng làm đủ hồ sơ, tức là chưa thể "qua được vòng gửi xe" như người dân thường nói.
Theo đó, văn bản đề nghị thực hiện dự án đầu tư gồm các tài liệu về tư cách pháp lý của nhà đầu tư. Tài liệu chứng minh năng lực tài chính của nhà đầu tư, báo cáo tài chính hai năm gần nhất, cam kết hỗ trợ tài chính của công ty mẹ, cam kết hỗ trợ tài chính của tổ chức tài chính.
Điều này có nghĩa, nhà đầu tư phải tồn tại ít nhất hai năm trên thị trường, những doanh nghiệp mới thành lập trong vòng hai năm không có quyền đầu tư; doanh nghiệp không có công ty mẹ, không có cam kết hỗ trợ tài chính của tổ chức tài chính cũng không đủ hồ sơ tham dự. Đây là các quy định "khó hơn lên trời" đối với các doanh nghiệp mới thành lập.
Bên cạnh đó, theo ông Cung, quy định này cũng trùng lặp và không chi tiết bằng báo cáo khả thi theo Luật Xây dựng.
Đây cũng là quan điểm chung của nhiều chuyên gia khi nói về vấn đề này. Dù vậy, nhiều ý kiến cho rằng không nên bỏ thủ tục này.
Theo đó, Luật sư Nguyễn Văn Đỉnh, chuyên gia pháp lý bất động sản cho rằng quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư là cơ sở để xác lập dự án, qua đó xác định rõ ràng các thông tin: quy mô, mục tiêu dự án, thời hạn thực hiện dự án, tiến độ thực hiện, quyền - nghĩa vụ của các bên (nhà nước, nhà đầu tư) với nhau, xác định các ưu đãi đầu tư mà nhà đầu tư sẽ được hưởng. Do đó, nếu không có quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư thì những nội dung trên sẽ rất khó xác định một cách minh bạch và chủ thể chịu thiệt hại nhất chính là các nhà đầu tư.
Ví dụ, với một dự án khu du lịch nghỉ dưỡng, nếu không xác định rõ thời hạn hoạt động của dự án, nhà đầu tư sẽ không biết chính xác mình được thực hiện hoạt động kinh doanh trong bao lâu để có chiến lược phù hợp, đồng thời luôn lo âu về việc dự án bị chấm dứt hoạt động để giao cho một nhà đầu tư khác.
Ông Đỉnh cho rằng nếu không xác định rõ ràng ngay từ đầu quyền - nghĩa vụ của các bên thì quá trình thực hiện rất có thể sẽ phát sinh bất cập, tranh cãi. Chẳng hạn, nếu không thực hiện chấp thuận chủ trương đầu tư thì đến bước giao đất, cơ quan nhà nước rà soát thấy 9/10 loại quy hoạch đã phù hợp nhưng còn 1 quy hoạch không phù hợp. Trường hợp này, dự án hoặc là sẽ phải chấm dứt hoạt động, hoặc phải dừng lại để điều chỉnh quy hoạch cho phù hợp.
Ngoài ra, hiện nay vẫn còn hiện tượng “tư duy nhiệm kỳ”, khiến nhà đầu tư có thể bị gây khó dễ sau khi cơ quan nhà nước có sự chuyển giao lãnh đạo nhiệm kỳ mới. Trường hợp này, việc nắm giữ văn bản chấp thuận chủ trương đầu tư lại là công cụ để nhà đầu tư bảo vệ quyền lợi của mình.
Đặc biệt, theo ông Đỉnh, việc bỏ thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư có nguy cơ khiến nền kinh tế trở nên nhiễu loạn vì mọi dự án đều không có “giấy khai sinh”, như vậy dự án “thật” sẽ trộn lẫn với dự án “ma”, không phân biệt được thật giả và người tiêu dùng có nguy cơ chịu thiệt hại từ hành vi lừa đảo.
Thủ tục kéo dài không chỉ nằm ở Luật Đầu tư
Luật sư Phạm Thanh Tuấn (Đoàn Luật sư TP. Hà Nội) cho rằng thủ tục đầu tư kéo dài không phải chỉ vì Luật Đầu tư.
Theo ông Tuấn, đối với các dự án có sử dụng đất, tùy tính chất mà doanh nghiệp có thể phải có đến gần 20 loại giấy tờ, thủ tục khác nhau, do nhiều cơ quan khác nhau yêu cầu và dựa trên các luật khác nhau. Trong đó, chấp thuận chủ trương đầu tư chỉ là một “chốt chặn” ở giai đoạn đầu dự án mà nhà đầu tư phải đi qua.

Do đó, ông Tuấn cho rằng nếu chỉ cắt bỏ thủ tục này mà không cải cách các thủ tục khác thì không mang lại nhiều ý nghĩa thực chất.
Ví dụ, một dự án xây dựng trường học hoặc bệnh viện (không thuộc diện phải xin chấp thuận chủ trương đầu tư theo Luật Đầu tư). Tuy nhiên, nếu dự án triển khai thông qua đấu giá hoặc đấu thầu thì vẫn có thể mất tới 2 năm hoặc lâu hơn để hoàn tất thủ tục. Điều đó cho thấy vấn đề không nằm ở riêng Luật Đầu tư.
Ngoài ra, có rất nhiều quy định về thủ tục lựa chọn nhà đầu tư nằm ở các luật khác, như: Luật Đấu thầu quy định về đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư; Luật Đất đai quy định về đấu giá quyền sử dụng đất; Luật Nhà ở điều chỉnh dự án nhà ở xã hội, cải tạo chung cư… Vì vậy, nếu muốn sửa thì không thể chỉ sửa Luật Đầu tư, mà cần sửa đồng bộ nhiều luật khác có liên quan.
Luật sư Tuấn cũng nêu rằng, trên thực tế, những khâu mất thời gian nhất không phải là thủ tục đầu tư trong Luật Đầu tư, mà nằm ở các luật chuyên ngành như: Luật Quy hoạch (các loại quy hoạch chồng chéo, thiếu đồng bộ); Luật Xây dựng (thiết kế cơ sở, cấp phép xây dựng); Luật Môi trường, Luật PCCC, và đặc biệt là Luật Đất đai (bồi thường, giao đất, xác định giá đất…).
“Quy hoạch và đất đai mới chính là hai nút thắt khiến doanh nghiệp ngán ngẩm nhất”, ông Tuấn nói.
Ông Phạm Thanh Tuấn nhìn nhận rằng trong bối cảnh hệ thống quy hoạch vẫn đang trong quá trình hoàn thiện, giữ một thủ tục có tính kiểm soát và minh bạch rõ ràng vẫn tốt hơn là để trống. Tuy nhiên, thủ tục này cần giới hạn lại phạm vi áp dụng.

Ví dụ cụ thể, ông Tuấn khẳng định đối với những dự án đã được UBND cấp tỉnh cho phép thỏa thuận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai thì nên miễn thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư để tránh trùng lặp.
Còn theo luật sư Nguyễn Văn Đỉnh, vấn đề mà doanh nghiệp quan tâm, lo ngại hiện nay là khâu thẩm định, chấp thuận chủ trương đầu tư được thực hiện quá lâu, một số dự án kéo dài qua nhiều năm.
Giải pháp phải là sửa luật để đơn giản hóa quá trình 3 bước: trình - thẩm định - ra quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư.
Theo ông Đỉnh, thủ tục quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư là cần thiết, vấn đề còn lại chỉ là phải sửa luật để phân cấp triệt để thẩm quyền cho cấp địa phương, tránh đẩy việc lên trung ương, đồng thời thủ tục thẩm định, chấp thuận phải nhanh, gọn, tối giản, tránh cồng kềnh như thời gian qua.
Ngoài ra, việc các dự án tắc nghẽn do pháp lý còn liên quan đến các thủ tục khác, quy định bởi nhiều luật khác và thuộc phạm vi quản lý của nhiều bộ, ngành. Do đó, cần rà soát, sửa đổi các luật liên quan để cắt giảm, đơn giả hóa thủ tục hành chính nhằm tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư.