'Có doanh nghiệp xây dựng thu 3.000 tỷ/quý nhưng hiệu quả kinh doanh chỉ xấp xỉ 10 tỷ'
Nhấn mạnh doanh nghiệp xây dựng đang đứng trước nguy cơ phá sản nếu không thu hồi được nợ, lãnh đạo Hiệp hội Nhà thầu xây dựng Việt Nam lấy ví dụ có những tập đoàn một quý năm 2022 đạt doanh thu đến 3.000 tỷ đồng nhưng hiệu quả chỉ đạt xấp xỉ 10 tỷ.
Đây là thực trạng được ông Nguyễn Quốc Hiệp, Chủ tịch Hiệp hội Nhà thầu xây dựng Việt Nam, nêu ra tại hội nghị toàn quốc giữa Thủ tướng Chính phủ với các doanh nghiệp, tổ chức ngày 11/8.
Theo ông Hiệp, với tình hình bão giá vật liệu xây dựng tăng cao đến 18-40% suốt từ 2021 đến nay, cộng với những khó khăn về nguồn nhân lực do hậu quả của Covid-19 và công việc về xây dựng cũng trở nên hạn hẹp, khó khăn do những vướng mắc về thủ tục pháp lý trong việc đầu tư nên tình hình chung các doanh nghiệp xây dựng từ nay đến cuối năm vẫn còn rất nhiều khó khăn.
Phần lớn doanh nghiệp trong ngành xây dựng dự kiến chỉ đạt 80-90% kế hoạch đặt ra về doanh thu và sản lượng. Nhưng điều đáng lo ngại là dòng tiền và hiệu quả kinh doanh sụt giảm mạnh vì chi phí lớn.
Báo cáo Thủ tướng một số vấn đề vướng mắc chính của doanh nghiệp xây dựng, ông Hiệp cho biết đầu tiên là vấn đề nợ đọng xây dựng.
Theo ông Hiệp, các doanh nghiệp xây dựng Việt Nam phần lớn (khoảng 90%) là doanh nghiệp vừa và nhỏ quy mô vốn dao động dưới 100 tỷ đồng. Các doanh nghiệp lớn trong ngành cũng chỉ phổ biến quy mô vốn từ 500-1.000 tỷ. Chưa đến 10 doanh nghiệp có vốn trên 1.000 tỷ.
Trong khi đó, nợ đọng không thanh toán được khá phổ biến ở tất cả các doanh nghiệp, các tổng công ty, tập đoàn xây dựng hầu hết đều có nợ đọng từ vài trăm đến vài nghìn tỷ, trong khi vốn eo hẹp phải vay ngân hàng để trang trải thi công với lãi suất thông thường khoảng 9-10%/năm nên có những tập đoàn một quý năm 2022 đạt doanh thu đến 3.000 tỷ nhưng hiệu quả chỉ đạt xấp xỉ 10 tỷ.
"Chính vì những khoản nợ đọng này nên các doanh nghiệp xây dựng, đặc biệt các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đứng trước nguy cơ phá sản nếu không thu hồi được nợ", Chủ tịch Hiệp hội Nhà thầu xây dựng Việt Nam nói.
Theo ông Hiệp, có 2 loại nợ đọng, gồm nợ công trình vốn đầu tư công là các khoản nợ này chủ yếu từ các công trình đã kết thúc 2-3 năm trước nhưng chưa quyết toán và thanh toán được do có phát sinh hoặc do hồ sơ thanh toán chưa được cấp có thẩm quyền phê duyệt nên vẫn còn tồn đọng.
Loại noại nợ đọng thứ hai là nợ vốn đầu tư ngoài ngân sách. Do một số chủ đầu tư chây ì cố tình không thanh quyết toán đặc biệt ở 25% cuối của dự án mặc dù đã đưa vào khai thác sử dụng.
Đối với vốn đầu tư công, Hiệp hội Nhà thầu xây dựng Việt Nam đề nghị Thủ tướng giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính rà soát lại các chủ đầu tư vốn ngân sách để thống kê chính xác số lượng nợ tồn xây dựng trong các năm trước, báo cáo Thủ tướng phương án cắt hết các nợ dồn toa để giải quyết dứt điểm cho các nhà thầu.
Đối với vốn đầu tư ngoài ngân sách, Hiệp hội đề nghị Thủ tướng giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Xây dựng nghiên cứu chế tài yêu cầu chủ đầu tư phải có bảo lãnh thanh toán của ngân hàng cho 20% vốn thanh toán cuối dự án, khi dự án kết thúc để đảm bảo sự bình đẳng cho các nhà thầu với chủ đầu tư.
Trước mắt, có chế tài cụ thể để cơ quan chức năng giải quyết cho các khoản nợ đọng kể cả biện pháp công bố tình trạng chây ì thanh toán của một số chủ đầu tư.
Vấn đề tiếp theo là đơn giá – định mức. Theo Hiệp hội Nhà thầu xây dựng Việt Nam, hiện các công trình xây dựng, đặc biệt các công trình vốn đầu tư công, đều sử dụng hệ thống đơn giá định mức do Bộ Xây dựng ban hành làm căn cứ cho cả khâu lập tổng mức đầu tư và thanh toán cho các dự án ở tất cả các loại hình công việc.
Tuy nhiên, do trình độ công nghệ của doanh nghiệp phát triển rất nhanh nên một số công việc không có định mức, một số công việc định mức đã trở nên lạc hậu không cập nhật kịp thời với giá thực tế nên dẫn tới những khó khăn cho các nhà thầu, đặc biệt với khu vực đầu tư công.
"Hiện nay có tình trạng một số doanh nghiệp xây dựng không muốn đảm nhận các dự án đầu tư công", ông Hiệp nêu vấn đề.
Về vấn đề này, Hiệp hội đề nghị Thủ tướng giao Bộ Xây dựng cùng với các hiệp hội doanh nghiệp nghiên cứu bổ sung, thay đổi hệ thống định mức đơn giá theo lộ trình. Trước mắt, bổ sung các định mức chưa có và điều chỉnh từng bước cậpp nhật với công nghệ xây dựng mới đồng thời chuyển hướng dần theo hướng xây dựng đơn giá tổng hợp để lập tổng mức đầu tư cho các dự án, bỏ dần hệ thống định mức chi tiết.
Ngoài ra, Hiệp hội Nhà thầu xây dựng Việt Nam cũng đề nghị có chế tài với các địa phương trong việc công bố các chỉ số giá vật liệu không cập nhật với giá thị trường.
Về vấn đề hợp đồng xây dựng và sự bình đẳng của các chủ thể, Hiệp hội cho biết hiện nội dung hợp đồng xây dựng giữa chủ đầu tư và các nhà thầu được hướng dẫn theo các nghị định dẫn chiếu từ luật đấu thầu và luật xây dựng.
Tuy nhiên, ở cả 2 mẫu hợp đồng đều không có sự bình đẳng giữa chủ đầu tư và nhà thầu (đặc biệt trong khâu thanh toán). Các nhà thầu phải có tới 4 loại bảo lãnh ngân hàng khi tham gia một dự án nhưng ở phía chủ đầu tư thì không có bất kỳ bảo lãnh não. Vì vậy phần lớn mọi rắc rối thường hay xả ra ở khoản 20% thanh toán cuối đời dự án.
Một số dự án áp dụng dạng hợp đồng trọn gói hoặc hình thức đơn giá cố định trong bối cảnh vật liệu xây dựng tăng cao từ 20-35% mà hợp đồng thì kéo dài 3-4 năm khiến cho các các doanh nghiệp xây dựng đều tiến thoái lưỡng nan.
Hiệp hội đề xuất Thủ tướng giao cho Bộ Xây dựng và Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghiên cứu xem xét mô hình hợp đồng cho từng loại hình đầu tư trong đó ở loại hình đầu tư ngoài ngân sách cần có cơ chế bảo lãnh thanh toán của chủ đầu tư ở 20% cuối cùng, đồng thời xem xét điều chỉnh các loại hình hợp đồng phù hợp với thông lệ quốc tế (FIDIC) cụ thể dạng hợp đồng trọn gói chỉ được áp dụng khi các yếu tố đầu vào được xác định rõ ràng cộng với tiến độ chỉ thực hiện trong vòng 24 tháng.
Về cơ chế thanh quyết toán, cần có chế tài bình đẳng giữa các chủ thể hợp đồng, đặc biệt cần quy định rõ cơ chế xứ lý các khối lượng phát sinh trong Hợp đồng (đặc biệt đối với đầu tư công về quyền hạn phê duyệt của chủ đầu tư để được thanh toán); đối với các khoản chậm trả do lỗi của chủ đầu tư cần có chế tài phạt theo lãi suất ngân hàng thương mại áp dụng.
Về vấn đề nguồn vốn tín dụng và lãi xuất, Hiệp hội cho biết các doanh nghiệp xây dựng đại đa số là các doanh nghiệp vừa và nhỏ quy mô vốn hạn hẹp, khi thực hiện các hợp đồng xây dựng phần lớn chỉ được tạm ứng 10-15% giá trị hợp đồng nên khi triển khai thực hiện phải sử dụng vốn tín dụng ngân hàng để mua vật tư, huy động xe máy, nhân công.
Theo Hiệp hội, thực chất công trường xây dựng cũng phải lo sản xuất, lo đời sống, công ăn việc làm cho người lao động không khác gì một nhà máy, nhưng tín dụng cho các doanh nghiệp xây dựng lại hoàn toàn chưa được ưu tiên như cho sản xuất, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay nhiều ngân hàng bị xiết room tín dụng nên tín dụng cho doanh nghiệp xây dựng cũng bị hạn chế và mặt bằng lãi suất còn cao.
Hiệp hội đề xuất Thủ tướng giao Ngân hàng Nhà nước có hướng dẫn bổ sung những ưu tiên hợp lý cho tín dụng xây dựng, đặc biệt là các dự án trọng điểm theo quan điểm hỗ trợ cho sản xuất.