Phát triển KCN sinh thái: Pháp lý chưa rõ, DN tự làm tự chịu rủi ro
Theo ông Ngô Nghị Cương, chuyên gia tư vấn đầu tư nước ngoài kiêm giám đốc điều hành Công ty Tư vấn và Đầu tư C+, phát triển KCN xanh, KCN sinh thái vừa là xu thế vừa là yêu cầu trong nền kinh tế bền vững.
Việt Nam và nhu cầu phát triển khu công nghiệp sinh thái
Hơn một thập kỷ qua, Trung Quốc đã ghi nhận tốc độ gia tăng chi phí nhanh chóng, khiến lợi thế về chi phí giá rẻ từng giúp quốc gia châu Á này thu hút đầu tư trở thành công xưởng sản xuất của thế giới đang dần biến mất.
Báo cáo mới đây của VPBankS Research chỉ ra, các quốc gia khu vực Đông Nam Á đang nổi lên như là điểm đến tiềm năng đón đầu xu hướng Trung Quốc +1. Xu hướng đa dạng hóa chuỗi giá trị sản xuất, mở rộng năng lực sản xuất tới nhiều thị trường, trung tâm công nghiệp sản xuất mới; hay sự lo ngại căng thẳng gia tăng giữa xung đột thương mại Mỹ - Trung là một trong những tác động thúc đẩy kế hoạch tìm kiếm “công xưởng mới” của các tập đoàn lớn.
VPBankS Research nhận thấy nhóm các quốc gia thuộc khu vực Đông Nam Á, Việt Nam sở hữu lợi thế cạnh tranh lớn về chi phí hoạt động, trong đó phải kể đến việc nước ta sở hữu rải giá cho thuê đất khu công nghiệp (KCN) rộng và đa dạng, phù hợp với nhiều nhu cầu thuê của khách hàng.
Tuy nhiên, trong xu thế toàn cầu hướng tới phát triển bền vững, các khu công nghiệp ngày nay không còn dừng lại ở việc đáp ứng những tiêu chí truyền thống. Thay vào đó, một loạt yêu cầu mới đang được đặt ra, đòi hỏi các khu công nghiệp phải "xanh" hơn, bền vững hơn và chú trọng đến chất lượng tổng thể.
Không chỉ mở rộng quy mô, các khu công nghiệp cần chuyển mình mạnh mẽ theo chiều sâu, tập trung vào ứng dụng công nghệ cao, đổi mới mô hình hoạt động, giảm thiểu tác động môi trường và tối ưu hóa tài nguyên. Đồng thời, sự phát triển cần đi đôi với việc gắn kết chặt chẽ trong mạng lưới phát triển vùng, tạo động lực liên kết giữa các khu vực lân cận để cùng nâng cao giá trị và sức cạnh tranh.
Trong trao đổi với VietnamFinance, ông Ngô Nghị Cương, chuyên gia tư vấn đầu tư nước ngoài kiêm giám đốc điều hành Công ty Tư vấn và Đầu tư C+, nhận định: "Môi trường đầu tư của Việt Nam có sức hấp dẫn riêng trong khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng về lâu dài, những lợi thế như chính sách ưu đãi thuế, chi phí cạnh tranh,… sẽ sớm không còn là yếu tố quyết định trong thu hút dòng vốn FDI vào Việt Nam".
"Trong dòng chảy hiện nay, phát triển KCN xanh, KCN sinh thái vừa là xu thế vừa là yêu cầu trong nền kinh tế bền vững. Phát triển KCN xanh hiện không còn mang tính đối phó với xu hướng chính sách hay pháp lý mà là một chiến lược phát triển dài hạn của doanh nghiệp đầu tư trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang hướng đến phát triển bền vững, kinh tế tuần hoàn, hướng đến mục tiêu phát thải các-bon ròng bằng 0 (net zero) vào năm 2050", ông nói.
Ngoài ra, việc phát triển KCN sinh thái còn mang lại nhiều lợi ích to lớn, có thể kể đến như bảo vệ môi trường, đóng góp vào phát triển bền vững qua đó thúc đẩy tăng trưởng dài hạn, tiết kiệm năng lượng, sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ sức khoẻ người lao động, và đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Ông Cương cũng cho biết, đối với các doanh nghiệp nước ngoài, tuỳ theo ngành nghề và thị trường xuất khẩu mục tiêu mà yếu tố “xanh hoá” có vai trò quyết định khác nhau trong quyết định đầu tư vào Việt Nam.
Đơn cử như với ngành chế biến sữa và sản phẩm từ sữa, các dự án đầu tư mới của các doanh nghiệp ngành này đều tìm đến những khu công nghiệp xanh có nguồn cung cấp năng lượng sạch, phát thải khí các-bon thấp và có những chứng chỉ phát triển bền vững. Ngoài ra, một số mặt hàng gỗ hay sắt thép xuất khẩu sang Liên minh Châu Âu (EU) đang phải chịu Cơ chế điều chỉnh biên giới cacbon (CBAM). Các doanh nghiệp xuất khẩu các ngành này đang phải xanh hoá quy trình sản xuất và thực hành bộ quy tắc Môi trường Xã hội và Quản trị (ESG) và khi cần mở rộng quy mô sản xuất, yếu tố “xanh và bền vững” sẽ là ưu tiên hàng đầu.
Trên thực tế, nhiều KCN tại Việt Nam cũng đã thu hút được các “đại bàng” nhờ phát triển theo định hướng KCN sinh thái. Chẳng hạn như câu chuyện của KCN DEEP C. Được xây dựng với các yếu tố bền vững ngay từ giai đoạn đầu như các dự án điện tái tạo kho xưởng theo tiêu chuẩn công trình xanh hay các mô hình cộng sinh công nghiệp,… KCN DEEP C trở thành một trong những điểm đến được ưu tiên hàng đầu đối với các doanh nghiệp FDI đầu tư vào Việt Nam. DEEP C còn thu hút được những dự án xanh từ nhà đầu tư lớn, bao gồm nhà máy sản xuất vật liệu thân thiện với môi trường của Tập đoàn SK (Hàn Quốc) và nhà máy xanh của Pegatron (Đài Loan, Trung Quốc).
Thách thức của KCN sinh thái
Đến nay, Chính phủ đã lồng ghép phát triển các KCN sinh thái vào các chiến lược quốc gia về phát triển bền vững và tăng trưởng xanh. Bên cạnh đó, cũng có nhiều đề xuất chính sách khuyến khích các khu công nghiệp chuyển đổi sang mô hình KCN sinh thái.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng đã đề ra kế hoạch đến năm 2030, có khoảng 40 - 50% địa phương chuyển đổi các KCN hiện hữu sang KCN sinh thái và 8 - 10% địa phương có định hướng xây dựng KCN sinh thái mới từ bước lập quy hoạch xây dựng và định hướng ngành, nghề thu hút đầu tư.
Mặc dù yêu cầu phát triển các KCN xanh, KCN sinh thái đang dần cấp thiết song cũng phải thừa nhận một thực tế rằng Việt Nam đang phải đối mặt với không ít thách thức khi xây dựng các KCN này.
Giám đốc điều hành Công ty Tư vấn và Đầu tư C+ cho hay: “Nhìn dưới góc độ doanh nghiệp, đây rõ ràng là bài toán thay đổi mô hình kinh doanh và kế hoạch kinh doanh đối với các khu công nghiệp. Như vậy, thách thức sẽ đến từ môi trường pháp lý, nguồn lực đầu tư cho chuyển đổi, nhân sự và chiến lược phát triển trong giao đoạn mới”.
Thách thức đầu tiên, theo ông Cương, là môi trường pháp lý cho sự phát triển mô hình KCN sinh thái. “Mặc dù trong Nghị định số 35/2022/NĐ-CP có nội dung về chính sách ưu đãi và thủ tục thành lập cho các doanh nghiệp đầu tư KCN sinh thái song vẫn chưa đủ. Chẳng hạn như các KCN truyền thống khi muốn chuyển đổi sẽ phải thực hiện như thế nào chưa được đề cập. Khung pháp lý cho mô hình phát triển này chưa rõ ràng thì các doanh nghiệp sẽ khó khăn trong việc chuyển đổi, vừa phải tự làm vừa tự chịu rủi ro. Do đó, chúng ta cần phải có thêm những tiêu chuẩn hay bộ tiêu chí chung, thống nhất cho việc chuyển đổi sang mô hình KCN sinh thái”, ông dẫn chứng.
Bên cạnh đó, nguồn lực về tài chính, giải pháp công nghệ và nhân lực của các KCN cũng là những trở ngại không nhỏ trên hành trình chuyển đổi mô hình. Trên thực tế, đã có một số KCN được chọn tham gia chương trình hỗ trợ xây dựng KCN sinh thái của Bộ Kế hoạch và Đầu tư dưới sự tài trợ từ Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO) và Ban Thư ký Nhà nước về Kinh tế Thụy Sĩ (SECO). Một số KCN tự tổ chức đưa nhân sự đi học tập mô hình phát triển KCN sinh thái của Nhật Bản, Hàn Quốc,… Tuy nhiên, con số này rất khiêm tốn trong tổng số các KCN đang hoạt động ở Việt Nam.
Chuyển đổi chiến lược thu hút đầu tư vào khu công nghiệp và thuyết phục doanh nghiệp trong KCN tham gia vào kinh tế tuần hoàn là một thách thức tiếp theo bởi việc hợp tác cộng sinh giữa các doanh nghiệp trong các KCN hiện nay còn khó khăn, vướng mắc. Ông Cương chia sẻ, đại diện một KCN đi tiên phong trong phát triển KCN sinh thái từng nêu vấn đề không thể tái sử dụng nước thải trong KCN dù chất lượng nước thải sau xử lý còn tốt hơn chất lượng nước thô do vướng vấn đề pháp lý.
“KCN sinh thái và kinh tế tuần hoàn đi song hành. Nước thải, chất thải trong một khu công nghiệp sinh thải phải được xử lý và tái sử dụng nhiều nhất có thể. Chất thải ra từ một nhà máy này có thể là nguồn nguyên liệu đầu vào của một nhà máy khác. Hoạt động cộng sinh công nghiệp này còn đòi hỏi nhiều khu công nghiệp trong một vùng liên kết với nhau. Rõ ràng khi lập kế hoạch thu hút đầu tư mới, các chủ đầu tư KCN sinh thái phải có một chiến lược tổng thể với tầm nhìn kinh tế tuần hoàn”, ông nói.
Để phát triển KCN sinh thái tại Việt Nam, ông Cương cho rằng điều cần làm đầu tiên là tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý cần thiết cho việc phát triển các KCN sinh thái và có những hướng dẫn thực hiện cụ thể. Song song với đó, cần có những chính sách ưu đãi khuyển khích chuyển đổi KCN truyền thống sau KCN sinh thái, bao gồm ưu đãi thuế và hỗ trợ tín dụng.
Thứ hai là nhanh chóng giải quyết những điểm nghẽn pháp lý trong việc áp dụng kinh tế tuần hoàn hay cộng sinh công nghiệp giữa các KCN trong một vùng, một khu vực.
Thứ ba là phát triển KCN sinh thái phải gắn liền với áp dụng công nghệ và đổi mới từ cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Trong quy hoạch, các KCN cần dành quỹ đất thu hút những doanh nghiệp start-up trong lĩnh vực công nghệ cao, tự động hoá, các dự án nghiên cứu và phát triển, dịch vụ công nghệ cao v.v… Các dòng vốn tỷ đô không đến chỉ với một dự án riêng lẻ mà mang theo cả hệ sinh thái của họ và các chủ đầu tư KCN cần có sự chuẩn bị tốt để săn đón dòng vốn này, ông Cương nhận định.