VEPR: GDP năm 2024 khó đạt mục tiêu
Phó viện trưởng Viện nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) Nguyễn Quốc Việt cho biết, trong năm 2024 triển vọng kinh tế sáng sủa hơn năm 2023 tuy nhiên với những ảnh hưởng của thế giới và trong nước, triển vọng tăng trưởng GDP chỉ đạt dưới tiệm cận mục tiêu Quốc hội đặt ra.
Sáng 20/6, Viện nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) trực thuộc Trường Đại học Kinh Tế - ĐHQGHN phối hợp với Viện Friedrich Naumann Foundation (FNF) Việt Nam tổ chức Hội thảo Công bố Báo cáo Kinh tế thường niên Việt Nam 2024.
Theo báo cáo VEPR, kinh tế Việt Nam 6 tháng cuối năm 2024 mặc dù vẫn khó khăn nhưng được kỳ vọng tăng trưởng tốt hơn so với cùng kỳ năm trước nhờ các yếu tố hỗ trợ: giải ngân vốn đầu tư công được đẩy mạnh ở giai đoạn 6 tháng cuối năm; ngành dịch vụ được thúc đẩy mạnh và xuất khẩu tiếp tục phục hồi tích cực; các chính sách hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế tiếp tục được Chính phủ chỉ đạo thực hiện quyết liệt.
Dựa trên phân tích dữ liệu quá khứ của 4 khu vực lớn trong nền kinh tế là khu vực kinh tế thực, tài khoá, cân đối đối ngoại (BOP) và chính sách tiền tệ), mô hình lập trình tài chính của IMF cho phép phân tích triển vọng kinh tế cho các lĩnh vực kinh tế vĩ mô chính, VEPR đưa ra 3 kịch bản tăng trưởng.
Theo đó, tăng trưởng mục tiêu 6,5% khó có thể đạt được trong năm 2024 bởi có sự thu hẹp trong khu vực công; cầu tiêu dùng còn yếu cả trong và ngoài nước, tác động tới chi tiêu khu vực tư nhân và tăng trưởng xuất khẩu; tỷ giá rủi ro tăng trong nửa cuối năm 2024 được thúc đẩy rủi ro lạm phát và giảm động lực đầu tư khu vực tư nhân.
Theo kịch bản cơ sở, tăng trưởng GDP 2024 ở mức 5,85%, lạm phát ở mức 4,5%, tỷ giá VND bình quân năm mất giá ở mức 5-6% năm 2024, giải ngân đầu tư công đạt mục tiêu đề ra cũng như đầu tư FDI không có biến động bất thường trong nửa cuối năm 2024.
Tuy nhiên, theo VEPR, kịch bản này đạt được với một số giả định đạt mục tiêu như: cán cân thanh toán thặng dư tối thiểu 21 tỷ USD; đầu tư khu vực tư nhân (FDI, DN trong nước) tăng 12% so với năm 2023 và tiêu dùng khu vực tư nhân tăng 4,2% so với năm 2023. Mức tăng trưởng này có thể bù đắp cho tiêu dùng và đầu tư chậm lại từ khu vực công.
Ở kịch bản điều chỉnh chính sách, GDP 2024 ở mức 6,01% với điều kiện có điều chỉnh chính sách giảm chênh lệch lãi suất đồng VND trong nước và các các ngoại tệ mạnh trên thị trường quốc tế, giảm chênh lệch về lãi suất thực về huy động giữa đồng VND và USD, góp phần làm tăng cấu phần xuất khẩu ròng đạt mức 24 tỷ USD. Tăng trưởng đầu tư công và tư tốt hơn nhờ cải thiện môi trường đầu tư, kiểm soát tốt lạm phát ở mức 5%.
VEPR đánh giá, trong cả hai kịch bản, nền kinh tế đều đang hoạt động dưới mức tiềm năng.
Để đạt mục tiêu phát triển kinh tế, VEPR khuyến cáo, trong ngắn hạn cần tiếp tục ưu tiên trọng tâm chính sách tài khóa với sự hỗ trợ của chính sách tiền tệ; tập trung đẩy mạnh hiệu quả giải ngân vốn đầu tư công các tháng còn lại của năm 2024;
Nghiên cứu khả năng có thể gia hạn một số chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, người dân thời kỳ Covid-19 cho giai đoạn 2024-2025; thúc đẩy tổng cầu trong nền kinh tế; thúc đẩy tăng trưởng tín dụng. Đó là xem xét tăng mức giảm trừ gia cảnh tính thuế thu nhập cá nhân; xem xét kéo dài chính sách giảm thuế VAT 2% hiện hành đến hết năm 2024, thậm chí, nếu tăng trưởng GDP năm 2024 không đạt mục tiêu, tổng cầu tiếp tục yếu hơn kỳ vọng, có thể nghiên cứu kéo chính sách giảm VAT đến tháng 6/2025 và tăng mức giảm thuế VAT lên 3 - 4%.
Chính sách tiền tệ trọng tâm hỗ trợ ổn định kinh tế vĩ mô, ưu tiên kiểm soát tỷ giá, củng cố tâm lý thị trường thông qua trách nhiệm giải trình, minh bạch thông tin.
Trong trung và dài hạn, VEPR cho rằng cần có thêm các gói tín dụng cho doanh nghiệp để đầu tư sản xuất bền vững, trung hòa các-bon, thúc đẩy chuyển đổi số, tăng hàm lượng khoa học và công nghệ trong sản xuất kinh doanh; công nghệ xanh, thân thiện môi trường...
Thúc đẩy thực hiện xếp hạng tín nhiệm đối với doanh nghiệp, vừa và nhỏ để làm căn cứ cho các quỹ có thể bảo lãnh tín chấp. Nghiên cứu áp dụng “tín dụng thuế đầu tư” cho lĩnh vực sản xuất.
Cùng với đó, Ngân hàng Nhà nước cần chủ động tăng cường tính minh bạch thông tin điều hành chính sách tiền tệ, như công bố lịch họp định kỳ hàng tháng từ bài học kinh nghiệm của nhiều Ngân hàng Trung ương trên thế giới.