VN-Index: Xác suất giảm điểm lên tới 68%, lịch sử có lặp lại?
Dòng vốn toàn cầu không còn ưa cổ phiếu Mỹ, mở ra cơ hội cho các thị trường mới nổi như Việt Nam. Tuy nhiên, chưa thể quá lạc quan khi xác suất giảm điểm của VN-Index nửa cuối tháng 6 lên tới 68% và còn nhiều biến số như lãi suất, tỷ giá và thuế quan.
Thị trường chứng khoán đã bước vào những ngày cuối cùng của tháng 6, chuẩn bị khép lại một nửa đàu năm đầy biến động. Đây cũng là giai đoạn mà theo ông Nguyễn Thế Minh, Giám đốc Khối Nghiên cứu và Phát triển khách hàng cá nhân, Công ty Chứng khoán Yuanta Việt Nam, có xu hướng diễn biến không thuận lợi.
“Thị trường chứng khoán thường giảm điểm trong nửa cuối tháng 6”, ông Minh nói.
Theo vị chuyên gia, bên cạnh yếu tố mang tính chu kỳ như hoạt động cơ cấu danh mục của các quỹ đầu tư, thị trường hiện đang đối mặt với nhiều biến số khó lường, bao gồm định hướng chính sách tiền tệ từ nền kinh tế lớn nhất thế giới và những căng thẳng địa chính trị đang leo thang trên phạm vi toàn cầu.
Chính trị Mỹ chia rẽ niềm tin, cơ hội cho các thị trường mới nổi
“Thống kê chỉ số S&P500 từ năm 1950 đến nay cho thấy, chỉ số này thường giảm điểm vào nửa cuối tháng 6, với mức giảm chỉ thấp hơn nửa cuối tháng 9”, ông Nguyễn Thế Minh cho hay.

Đáng chú ý, kỳ vọng vào khả năng tăng điểm của thị trường chứng khoán Mỹ trong vòng 6 tháng tới đang có sự phân cực rõ nét theo Đảng phái chính trị. Dẫn khảo sát của Gallup, ông Minh cho biết, có tới 60% nhà đầu tư ủng hộ Đảng Cộng hòa tin rằng thị trường chứng khoán Mỹ sẽ tăng trong 6 tháng tới, trong khi tỷ lệ này ở nhà đầu tư thuộc Đảng Dân chủ chỉ hơn 10%.
“Như vậy, yếu tố chính trị cũng ảnh hưởng rất nhiều đến kỳ vọng về thị trường chứng khoán Mỹ trong 6 tháng tới”, đại diện Yuanta Việt Nam đánh giá. Cũng theo vị chuyên gia, tỷ lệ ủng hộ thị trường chứng khoán Mỹ tăng điểm vẫn đang ở mức cao.

Dù vậy, cổ phiếu Mỹ đã không còn là lựa chọn hàng đầu trong mắt các quỹ đầu tư. Ông Nguyễn Thế Minh dẫn kết quả khảo sát của Bank of America cho hay, nhóm tài sản được kỳ vọng tăng trưởng tốt nhất trong 5 năm tới là cổ phiếu quốc tế (ngoài Mỹ), tiếp đến mới là cổ phiếu Mỹ.
“Điều này ngụ ý rằng dòng vốn đầu tư toàn cầu có thể sẽ tiếp tục dịch chuyển vào các thị trường ngoài Mỹ và mở ra cơ hội cho các thị trường mới nổi, trong đó có Việt Nam – nơi có nền tảng chính trị và vĩ mô ổn định, định giá còn thấp và dư địa tăng trưởng dài hạn”, ông Minh nói.

Vị chuyên gia cũng đề cập tới một “điểm nóng” khác là diễn biến lãi suất. Tuần qua, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) tiếp tục giữa nguyên lãi suất điều hành. Tuần qua, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) quyết định giữ nguyên lãi suất điều hành, trong bối cảnh lo ngại lạm phát có thể quay trở lại do ảnh hưởng của chính sách thuế quan mới và căng thẳng địa chính trị lên giá dầu, chi phí vận tải. Cùng với đó, Fed cũng tỏ ra thận trọng hơn khi điều chỉnh dự báo kinh tế, với lạm phát lõi dự kiến ở mức 3%, tỷ lệ thất nghiệp 4,5% và tăng trưởng GDP chỉ đạt 1,4%.
Theo ông Nguyễn Thế Minh, nếu áp dụng quy tắc Taylor – mô hình phổ biến trong việc ước tính lãi suất cân bằng – mức lãi suất phù hợp hiện tại của Fed sẽ dao động quanh 4,5–5,2%, tùy thuộc vào chỉ số đầu vào như tỷ lệ thất nghiệp hay mức tăng trưởng GDP.
“Như vậy, mức lãi suất 4,25-4,5% hiện tại của Fed là khá phù hợp với các kỳ vọng về tăng trưởng GDP cũng như tỷ lệ thất nghiệp trong năm 2025. Sẽ khó có đợt cắt giảm lãi suất trong năm 2025 như kỳ vọng của thị trường. Kịch bản tích cực nhất là Fed sẽ có một lần cắt giảm nhẹ 0,25 điểm phần trăm vào tháng 9 hoặc 10”, ông Minh nhận định.
Lãi suất, tỷ giá, thuế quan: Những biến số lớn tại Việt Nam

Trở lại với thị trường trong nước, chỉ số VN-Index cũng thường xuyên giảm điểm trong nửa cuối tháng 6.
Theo thống kê của Yuanta Việt Nam, xác suất giảm điểm của VN-Index trong giai đoạn này lên tới 68%, với mức giảm trung vị là -1,13% và mức giảm trung bình là -1,07%. Tuy nhiên, như phân tích trước đó, Việt Nam vẫn có cơ hội tận dụng dòng vốn quốc tế đang tìm kiếm điểm đến thay thế Mỹ.
Dù vậy, thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều yếu tố rủi ro. Ba biến số chính hiện nay, theo ông Minh, đó là: lãi suất trái phiếu, tỷ giá và thuế quan.
Về lãi suất, tuần qua, lãi suất trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 10 năm đã tăng lên 3,31%, mức cao nhất trong vòng hai năm.
“Nguyên nhân chủ yếu đến từ tác động kỳ vọng Fed sẽ duy trì lãi suất ở mức cao trong thời gian dài, cùng với những lo ngại về lạm phát quay trở lại do biến động địa chính trị,” ông Minh phân tích.
Theo quan sát của Yuanta, thanh khoản trên thị trường vẫn ở trạng thái dồi dào và nhu cầu vẫn tập trung vào các kỳ hạn ngắn. Các chỉ số CDS (Credit Default Swap, hoán vị rủi ro tín dụng) tiếp tục ở mức thấp, phản ánh rủi ro vĩ mô không quá lớn. Điểm tích cực là chênh lệch lợi suất USD và VND có thể thu hẹp làm giảm áp lực tỷ giá trong ngắn hạn và đà rút vốn của khối ngoại trên thị trrường chứng khoán.
“Tuy nhiên, cần lưu ý mức chênh lệch lợi suất USD và VND vẫn dương và ở mức cao”, ông Minh nói.

Về thuế quan, đây có thể được xem là là biến số khó lường nhất trong ngắn hạn. Căng thẳng địa chính trị và động thái chờ đợi của Fed trong thời gian dài được cho là các yếu tố khiến các cuộc đàm phán trở nên không hề dễ chịu. Theo đại diện Yuanta Việt Nam, giá dầu tăng cùng với lãi suất cao khiến lạm phát Mỹ sẽ trở nên khó đối phó và mức lạm phát Mỹ có thể tăng mạnh hơn nếu mức thuế quan được chính thức áp dụng ngày 8/7/2025.
Một dẫn chứng khác là thời gian gần đây, có nhiều cuộc đàm phán được coi là không mấy thành công: “Các quốc gia dường như có xu hướng từ bỏ hy vọng về việc đạt được mức thuế suất thấp, thay vào đó là chấp nhận mức thuế cao hơn để tránh phải nhượng bộ một số điều với Mỹ”.
Đáng chú ý, theo dự báo của Nomura, mức thuế mà Mỹ có thể áp lên hàng hóa Việt Nam là 24,3% – cao nhất trong khu vực ASEAN.
“Đó chỉ là con số tham khảo. Chúng tôi vẫn dự báo rằng đàm phán thuế quan sẽ không sớm có kết quả và ông Trump có thể tiếp tục “delay” lệnh thuế quan trong trong thời gian tới”, ông Nguyễn Thế Minh cho hay.
Vị chuyên gia cảnh báo, bếu kịch bản “delay” diễn ra, khó khăn nhất vẫn là các doanh nghiệp xuất khẩu và bất động sản khu công nghiệp vì không biết việc kéo dài mất bao lâu và ảnh hưởng đến kế hoạch của các doanh nghiệp.