Xã hội hóa hạ tầng sân bay: Khó ở việc “chưa có đường đi”
Phát biểu tại tọa đàm “Huy động các nguồn lực phát triển hạ tầng hàng không”, sáng 23/6, chuyên gia hàng không Lương Hoài Nam cho rằng, xã hội hóa hạ tầng sân bay gặp khó ở việc “chưa có đường đi”. Nhiều nhà đầu tư từng mong muốn làm nhưng khó quá đã xin rút.
Nhà đầu tư không biết “đi” thế nào về thủ tục đầu tư
Theo chuyên gia hàng không Lương Hoài Nam, xã hội hóa hạ tầng sân bay trên thế giới là khái niệm có nhiều cách làm, nhiều mô hình. Tuy nhiên, tại Việt Nam, quá trình này đang gặp khó ở việc “chưa có đường đi”.
“Nhà đầu tư ko biết “đi” thế nào về thủ tục hành chính, đầu tư. Địa phương cũng không biết làm thế nào để thu hút nguồn vốn xã hội hóa. Nhiều nhà đầu tư từng mong muốn làm nhưng khó quá đã xin rút”, ông Nam nói.
Hiện nay, Bộ Bộ Giao thông vận tải đang giao toàn bộ hạ tầng cho Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam (ACV) quản lý và khai thác. Quan hệ của các nhà đầu tư tư nhân thực hiện xã hội hóa như tại Vinh, Phù Cát cũng phải tương đương ACV.
Các đại biểu tham gia tọa đàm “Huy động các nguồn lực phát triển hạ tầng hàng không”.
Ông Nam cho rằng, phương án tốt nhất hiện nay là ACV nên thoái vốn để các nhà đầu tư tư nhân tham gia vận hành, nhưng phải có cách giải quyết khoa học, minh bạch, không thất thoát. Đặc biệt, điều khó khăn là tài sản hiện hữu của ACV tại các sân bay. Những vấn đề chưa rõ ràng khiến nhà đầu tư và các địa phương không biết làm như thế nào.
Năm 2030, tổng công suất là 275 triệu khách, nếu không xã hội hóa hạ tầng sân bay sẽ khó đạt được mục tiêu đặt ra của ngành hàng không.
Chia sẻ tại tọa đàm, ông Nguyễn Anh Dũng - Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch đầu tư, Bộ Giao thông vận tải thừa nhận, Việt Nam hiện đang khai thác 22 cảng hàng không, trong đó có 21 cảng hàng không do doanh nghiệp Nhà nước là Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam quản lý và có 1 cảng hàng không đã kêu gọi, huy động xã hội đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP) là Cảng hàng không Vân Đồn, Quảng Ninh.
Tốc độ phát triển rất nhanh của vận tải hàng không đã gây áp lực lên kết cấu hạ tầng cảng hàng không. Giai đoạn 2011 – 2019, kết quả đầu tư kết cấu hạ tầng hàng không Việt Nam đạt được công suất thiết kế cho các cảng hàng không là 95 triệu lượt hành khách/năm.
Trong khi thực tế thời điểm cao nhất trước COVID-19 năm 2019, sản lượng thông qua các cảng hàng không của Việt Nam đạt 116,5 triệu hành khách/năm. Như vậy là đã vượt khoảng 20 triệu lượt khách thông qua hệ thống cảng hàng không Việt Nam.
“Với lưu lượng như vậy, một số cảng hàng không của chúng ta đã quá tải hạ tầng, tập trung chủ yếu vào các cảng hàng không đầu mối lớn của cả nước, cụ thể là Cảng hàng không Tân Sơn Nhất, Nội Bài, Cam Ranh, Đà Nẵng.
Giai đoạn vừa qua, nguồn vốn huy động vào các cảng hàng không này chủ yếu là ngân sách Nhà nước và doanh nghiệp Nhà nước”, ông Dũng cho biết.
Là người điều hành sân bay xây dựng theo hình thức xây dựng - vận hành - chuyển giao (BOT) đầu tiên, ông Phạm Ngọc Sáu - nguyên Giám đốc Cảng hàng không quốc tế Vân Đồn nhấn mạnh, Sân bay Vân Đồn là sân bay tư nhân đầu tiên tại Việt Nam, nên khi vận hành chắc chắn gặp khó khăn, vướng mắc.
Đó là các khó khăn liên quan đến quản lý tài chính, đào tạo nguồn nhân lực, quản lý an ninh an toàn, vấn đề tăng trưởng và đặc biệt, khi vận hành một sân bay mới, chúng ta chưa có quy định pháp lý theo kịp hoạt động.
Cần có các đối tác chiến lược “cộng sinh”
Để thành công với 1 sân bay mới cũng như các hạng mục hạ tầng, nguyên Giám đốc Cảng hàng không quốc tế Vân Đồn khuyến nghị, các doanh nghiệp cần chiến lược đầu tư rõ ràng ngay từ thời điểm đầu tiên.
“Nghĩa là chúng ta phải xác định việc đầu tư đó phục vụ cho phát triển sân bay, phát triển ngành hàng không, đem lại lợi ích cho hành khách, phát triển xã hội. Với tâm huyết đó, chúng ta sẽ thành công; nhà đầu tư sẽ thành công trong tương lai”, ông Sáu nói.
Cùng với đó, doanh nghiệp phải có năng lực tài chính tốt vì khi đầu tư vào sân bay thì yêu cầu nguồn vốn lớn. Việc quản lý phải chuyên nghiệp thay vì chỉ quan tâm đầu tư hạ tầng mà không chú trọng quá trình vận hành.
“Doanh nghiệp đầu tư cần có các đối tác chiến lược, đặc biệt là đối với một sân bay mới, mối quan hệ với các hãng hàng không hết sức quan trọng vì nếu có ít chuyến bay thì chắc chắn hành khách sẽ chọn sân bay có nhiều chuyến bay hơn…
Đây là vấn đề “cộng sinh” để làm sao, các hãng hàng không chấp nhận rủi ro để đưa các chuyến bay tới sân bay. Như vậy, hành khách sẽ đi lại nhiều hơn, tạo thành hệ sinh thái để các bên thành công”, ông Sáu khuyến nghị.
Chuyên gia hàng không Lương Hoài Nam đề xuất giải pháp, muốn thu hút đầu tư xã hội hóa hạ tầng sân bay thì phải "trải thảm" về cơ chế chính sách, có những sự hỗ trợ ở một số hạng mục, giải pháp về thủ tục hành chính. Thủ tục hành chính phải đơn giản, mạch lạc, không có rủi ro cho nhà đầu tư.
Với sân bay chuyên dùng, cần sửa đổi Nghị định 42/2016/NĐ-CP ngày 15/5/2016 của Chính phủ (về việc quy định điều kiện, trình tự, thủ tục mở, đóng sân bay chuyên dùng) theo hướng sân bay chuyên dùng giao cho địa phương quản lý về quy hoạch và đầu tư, các bộ khác quản lý theo chuyên ngành. Điều này sẽ tạo được bước đột phá về sân bay nhỏ.