Mekong Group (VC3): Quý II chỉ lãi 20 tỷ, nửa năm mới hoàn thành 6% mục tiêu lợi nhuận
Công ty Cổ phần Tập đoàn Nam Mê Kông (HNX: VC3) tiếp tục có một quý mà doanh thu, lợi nhuận tăng trưởng tính bằng lần. Tuy nhiên, so với kế hoạch đề ra, kết quả đạt được vẫn là rất nhỏ bé.
Quý II/2023, doanh thu thuần hợp nhất của VC3 đạt 121 tỷ đồng, tăng 33,6 lần so với cùng kỳ năm trước. Lợi nhuận gộp đạt 37 tỷ đồng, tăng gấp 40 lần. Đây là quý thứ hai liên tiếp công ty ghi nhận mức tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận gộp lên tới hàng chục lần (quý I: doanh thu tăng 42 lần, lợi nhuận gộp tăng 67 lần).
So sánh thêm với quý I/2023, doanh thu và lợi nhuận gộp quý II/2023 cũng đều tăng trưởng hàng chục %, lần lượt tăng 73% và tăng 82%, phản ánh xu hướng đi lên của công ty trong năm nay.
Về hoạt động tài chính, quý II/2023, VC3 chỉ thu về 444 triệu đồng doanh thu, giảm tới 97%, còn chi phí lại tăng thêm 13%, lên 8 tỷ đồng. Trong khi đó, chi phí quản lý gần như không đổi, đạt 9 tỷ đồng. Dù vậy, kết quý II/2023, VC3 vẫn có lãi trước thuế 20 tỷ đồng, tăng gấp 14,5 lần và lãi sau thuế 16 tỷ đồng, tăng gấp 18,3 lần so với cùng kỳ năm trước.
Lũy kế 6 tháng đầu năm, doanh thu thuần của VC3 đạt 191 tỷ đồng, tăng 36 lần; lợi nhuận gộp đạt 64 tỷ đồng, tăng gấp 33,8 lần so với cùng kỳ.
Đi cùng với sự “nở ra” của doanh thu, chi phí tài chính tăng 41% (15 tỷ đồng) và chi phí quản lý tăng 31% (18 tỷ đồng). Song, tổng kết 6 tháng, lãi trước thuế vẫn tăng 13,2 lần, đạt 32 tỷ đồng và lãi sau thuế tăng 15,5 lần, đạt 25 tỷ đồng.
Năm 2023, VC3 đặt mục tiêu doanh thu 1.873 tỷ đồng, lãi trước thuế 546 tỷ đồng. Như vậy, kết thúc nửa đầu năm, công ty đã hoàn thành được 10% mục tiêu doanh thu và 5,8% mục tiêu lãi trước thuế.
Tại ngày 30/6/2023, tổng tài sản của VC3 đạt 3.622 tỷ đồng, giảm 2,4% so với đầu năm. Trong đó, quy mô vốn bằng tiền đạt 367 tỷ đồng, giảm 17%.
Hàng tồn kho chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu tài sản của VC3 với 64,6%, đạt 2.340 tỷ đồng, giảm khoảng 22 tỷ đồng so với đầu năm. Đây chủ yếu là chi phí sản xuất kinh doanh dở dang, tập trung tại các dự án: khu đô thị Bảo Ninh 2 (1.847 tỷ đồng), The Charms – Bình Dương (475 tỷ đồng), Vinaconex 3 – Phổ Yên (14 tỷ đồng)…
Các khoản phải thu ngắn hạn 6 tháng qua cũng đã tăng 9%, đạt 535 tỷ đồng. Dự phòng các khoản phải thu ngắn hạn khó đòi đạt 40 tỷ đồng.
Về nguồn vốn, tại ngày kết thúc quý II/2023, nợ phải trả của VC3 đạt 2.397 tỷ đồng, giảm 4,6% so với đầu năm. Chiếm 45% trong số đó là khoản “người mua trả tiền trước ngắn hạn”, đạt 1.072 tỷ đồng, giảm 121 tỷ đồng, tương đương giảm 10% so với đầu năm. Đây chủ yếu là tiền khách hàng trả trước tại dự án khu đô thị Bảo Ninh 2, tức doanh thu tương lai của công ty.
Nợ vay của VC3 không lớn so với quy mô vốn chủ, đạt 336 tỷ đồng, tăng 38% so với đầu năm.
Vốn chủ sở hữu của VC3 đạt 1.224 tỷ đồng, đồng nghĩa hệ số nợ phải trả/vốn chủ sở hữu là 1,95 lần – một mức không đáng quan ngại.
Dòng tiền kinh doanh 6 tháng qua của VC3 âm 35 tỷ đồng, chủ yếu do giảm các khoản phải trả. Trong 6 tháng, VC3 đã “rụt tay” trong việc chi đầu tư. Thay vào đó, công ty tích cực thu hồi cho vay, bán lại công cụ nợ của đơn vị khác và thu lãi cho vay, cổ thức, lợi nhuận được chia, khiến dòng tiền đầu tư dương 137 tỷ đồng.
Cũng nhờ đó, so với cùng kỳ năm trước, quy mô dòng tiền đi vay đã giảm 71%, còn 183 tỷ đồng và quy mô dòng tiền trả nợ gốc vay đã tăng 2,4 lần, đạt 90 tỷ đồng. Lưu chuyển tiền thuần 6 tháng dương 195 tỷ đồng, giúp nâng quy mô tiền và tương đương tiền lên 327 tỷ đồng.