Ngân hàng đầu tư: Mảnh ghép còn thiếu của thị trường tài chính Việt Nam

Dù có hơn 30 ngân hàng thương mại và hàng chục công ty chứng khoán, nhưng một ngân hàng đầu tư đúng nghĩa với khả năng bảo lãnh phát hành, tư vấn M&A quy mô lớn và triển khai các giao dịch phái sinh vẫn vắng bóng trên thị trường Việt Nam.

Mảnh ghép còn thiếu của thị trường tài chính Việt Nam

Trong quá trình hoàn thiện hệ sinh thái tài chính, Việt Nam đã chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của các ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán và quỹ đầu tư. Tuy nhiên, một mảnh ghép quan trọng để nâng tầm thị trường, kết nối nguồn vốn dài hạn với nền kinh tế thực, vẫn chưa hình thành rõ nét: ngân hàng đầu tư.

Trao đổi với VietnamFinance, TS. Nguyễn Tuấn Anh - Giảng viên ngành Tài chính, Khoa Kinh doanh, Đại học RMIT Việt Nam, nhận định thực trạng ngân hàng đầu tư tại Việt Nam hiện còn non trẻ, chưa đồng bộ với tốc độ phát triển kinh tế, khiến hệ sinh thái tài chính thiếu chiều sâu.

(Ảnh minh hoạ)  
(Ảnh minh hoạ)  

“Dù có hơn 30 ngân hàng thương mại và hàng trăm công ty chứng khoán, nhưng một ngân hàng đầu tư đúng nghĩa – với khả năng bảo lãnh phát hành, tư vấn M&A quy mô lớn và triển khai các giao dịch phái sinh – vẫn vắng bóng. Thay vào đó, những nghiệp vụ này chỉ được thực hiện hạn chế tại các công ty chứng khoán như SSI hay VCB Securities, chủ yếu tập trung vào môi giới và tư vấn, chưa đủ sức huy động nguồn vốn quy mô lớn cho doanh nghiệp. Hệ quả là hiệu quả của thị trường vốn bị hạn chế, thể hiện qua quy mô trái phiếu doanh nghiệp mới chỉ chiếm 11,2% GDP (2024), thấp hơn nhiều so với mức 30 – 50% ở các nước trong khu vực như Thái Lan, Singapore hay Malaysia”, TS. Tuấn Anh phân tích.

Theo ông Tuấn Anh, trên thế giới, ngân hàng đầu tư thường hoạt động trong ba mảng chính: tư vấn tài chính (advisory services), huy động vốn (capital raising) và giao dịch độc quyền (proprietary trading). Họ hỗ trợ doanh nghiệp IPO, bảo lãnh phát hành trái phiếu, tư vấn M&A, đồng thời quản lý quỹ và giao dịch chứng khoán để tạo lợi nhuận. Với chức năng đó, ngân hàng đầu tư giữ vai trò cầu nối giữa nguồn vốn và nhu cầu đầu tư, giúp hình thành vốn dài hạn, ổn định thị trường và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Tại các trung tâm tài chính lớn như New York (Mỹ), London (Anh) hay Hong Kong (Trung Quốc), những tên tuổi như JPMorgan, Goldman Sachs hay HSBC đã trở thành trụ cột, chiếm hơn 30% doanh thu toàn cầu trong nửa đầu năm 2024. Họ không chỉ thúc đẩy luân chuyển vốn xuyên biên giới mà còn góp phần ổn định hệ thống tài chính quốc tế. Theo Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS), phần lớn dòng vốn xuyên biên giới đều đi qua các trung tâm này.

TS. Lê Xuân Nghĩa – nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia cho biết Việt Nam từng triển khai mô hình ngân hàng đầu tư thông qua Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) với 100% vốn Nhà nước. Tuy nhiên, đến cuối năm 2024, ngân hàng này vẫn ghi nhận lỗ lũy kế chưa phân phối hơn 9.300 tỷ đồng.

VDB vốn hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, tập trung vào thực hiện chính sách kinh tế - xã hội theo chỉ đạo của Nhà nước. Trong khi đó, một ngân hàng đầu tư đúng nghĩa phải vận hành theo nguyên tắc thị trường: huy động vốn, đầu tư, sinh lời và chịu trách nhiệm về hiệu quả.

“Một số ngân hàng quốc doanh lớn muốn xây dựng mô hình tập đoàn tài chính, trong đó họ sẽ tách một phần để thực hiện vai trò của ngân hàng đầu tư. Tập đoàn tài chính này sẽ bao gồm ngân hàng thương mại làm trụ cột, bên cạnh đó là công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm, ngân hàng đầu tư, công ty quản lý quỹ,…”, TS Lê Xuân Nghĩa cho biết.

Theo ông, đã có giai đoạn Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) trình đề án thành lập tập đoàn tài chính, nhưng không được thông qua vì Việt Nam chưa có luật lệ để quản lý, điều chỉnh các tập đoàn tài chính mà vẫn đảm bảo tính minh bạch và không rủi ro cho cả hệ thống. Do đó ý tưởng thành lập một ngân hàng đầu tư trong một tập đoàn tài chính là không thành công.

Bổ sung chiến lược để hoàn thiện hệ sinh thái

Theo TS. Nguyễn Tuấn Anh, nguyên nhân chính khiến ngân hàng đầu tư chưa hình thành ở Việt Nam nằm ở khung pháp lý chưa hoàn thiện, giới hạn sở hữu nước ngoài và hạn chế về nguồn lực. Luật Các tổ chức tín dụng 2024 cho phép chi nhánh ngân hàng nước ngoài nhưng giới hạn tỷ lệ sở hữu tại ngân hàng nội địa ở mức 30%. Điều này khiến các “ông lớn” toàn cầu như Goldman Sachs hay JPMorgan e ngại tham gia, bởi tỷ lệ này không đủ để họ nắm quyền kiểm soát hay triển khai mô hình ngân hàng đầu tư hiệu quả.

Bên cạnh đó, hệ thống giám sát rủi ro trong nước vẫn còn yếu. Ước tính đến tháng 6/2025, tổng nợ xấu (bao gồm nợ nội bảng, nợ đã bán cho AMC và nợ tiềm ẩn) đã vượt 5% tổng dư nợ, làm gia tăng rủi ro cho các hoạt động đầu tư phức tạp.

“Kinh tế Việt Nam hiện vẫn dựa nhiều vào FDI và xuất khẩu, trong khi thị trường vốn trong nước chưa được ưu tiên phát triển. Hệ quả là nền kinh tế quá phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng, với dư nợ tín dụng lên tới 135% GDP. Đây có thể coi là giai đoạn chuyển tiếp, nhưng nếu tiếp tục chậm trễ trong việc phát triển ngân hàng đầu tư, Việt Nam sẽ khó bắt kịp tốc độ hội nhập toàn cầu”, TS. Tuấn Anh cảnh báo.

Trong bối cảnh Việt Nam đặt mục tiêu xây dựng trung tâm tài chính quốc tế tại TP.HCM và Đà Nẵng theo Nghị quyết của Chính phủ (tháng 7/2025), ông cho rằng việc bổ sung mảnh ghép ngân hàng đầu tư là cần thiết và phải được triển khai một cách chiến lược. Hiện hệ thống tài chính Việt Nam vẫn phụ thuộc nặng nề vào ngân hàng thương mại. Thị trường vốn mới chiếm khoảng 20–30% tổng huy động vốn, lại thiếu các công cụ tài chính phức tạp như bảo lãnh phát hành hay quản lý rủi ro phái sinh.

Để khắc phục, cần xây dựng khung pháp lý riêng cho ngân hàng đầu tư, cho phép thành lập các ngân hàng chuyên biệt với tỷ lệ sở hữu nước ngoài lên đến 49% (thay vì 30% như hiện nay đối với ngân hàng thương mại). Đồng thời, triển khai sandbox tài chính và khuyến khích tích hợp fintech trong hoạt động ngân hàng đầu tư, đặc biệt tại TP. HCM – nơi được định hướng trở thành trung tâm tài chính quốc tế.

Ngoài ra, việc phát triển nguồn nhân lực chuyên sâu về tài chính định lượng và quản trị rủi ro là yếu tố then chốt. Việt Nam có thể tận dụng hợp tác quốc tế với các trung tâm tài chính như Singapore để chuyển giao công nghệ và nâng cao năng lực nhân sự.

“Nếu thực hiện đồng bộ, ngân hàng đầu tư sẽ trở thành động lực tăng trưởng, đóng góp cho GDP mức 6–7% mỗi năm, như dự báo của World Bank cho giai đoạn 2025–2026. Tuy nhiên, cần giám sát chặt chẽ rủi ro hệ thống để tránh kịch bản bong bóng tài chính, giống như cuộc khủng hoảng 2008. Tổng thể, đây chính là mảnh ghép thiết yếu để Việt Nam tiến tới trở thành trung tâm tài chính khu vực, với khả năng thu hút hàng tỷ USD FDI mỗi năm vào lĩnh vực tài chính”, TS. Nguyễn Tuấn Anh khẳng định.

Hải Đường

Theo VietnamFinnace