Nợ xấu ngân hàng tăng: Những rủi ro mới khiến áp lực ngày càng lớn
Nợ xấu tại các ngân hàng yếu kém khoảng 537.000 tỷ đồng, chiếm 65% nợ xấu nội bảng của hệ thống, tỷ lệ nợ xấu tại Ngân hàng SCB tới hơn 98%.
Nợ xấu tại ngân hàng yếu kém tăng cao
Trong báo cáo về ngành ngân hàng mới đây, Công ty Chứng khoán Rồng Việt (VDSC) dẫn số liệu từ Hiệp hội Ngân hàng cho hay nợ xấu nội bảng toàn hệ thống ngân hàng tăng từ 778.000 tỷ đồng cuối năm 2024 lên 833.000 tỷ đồng vào cuối tháng 2 năm 2025, tăng 5,29% (tương đương 5,29% tổng dư nợ tín dụng nền kinh tế). Chỉ trong 2 tháng đầu năm 2025, nợ xấu tăng thêm 55.000 tỷ đồng.
Riêng tại 27 ngân hàng niêm yết, nợ xấu nội bảng tăng thêm hơn 37.000 tỷ đồng trong quý đầu năm. Quy mô nợ xấu nội bảng vào cuối quý I tăng lên gần 265 nghìn tỷ đồng, tương ứng tỷ lệ xấu là 2,16%.
Đáng chú ý, theo báo cáo của NHNN, nợ xấu tại các tổ chức tín dụng yếu kém (MBV, GPBank, VCBNeo, SCB...) ước khoảng 537.000 tỷ đồng, chiếm 65% nợ xấu nội bảng của hệ thống và tập trung chủ yếu tại ngân hàng SCB.
Tỷ lệ nợ xấu cụ thể của 5 ngân hàng yếu kém lần lượt là MBV (7,18%), GPBank (15,87%), VCBNeo (43,76%) và SCB (98,5%). Nợ xấu của các ngân hàng (không bao gồm các ngân hàng yếu kém) ước đạt 295.000 tỷ đồng.

Theo VDSC, đến cuối quý I, nợ nhóm 2 của các ngân hàng tăng nhẹ 7.000 tỷ đồng, chấm dứt xu hướng giảm trong ba quý trước đó.
Mặc dù tỷ lệ nợ xấu đang tăng trở lại nhưng chi phí trích lập dự phòng của nhiều ngân hàng lại giảm đáng kể.
Theo VDSC, chi phí trích lập dự phòng rủi ro tín dụng cụ thể của toàn ngành ngân hàng trong quý I/2025 đạt gần 29.000 tỷ đồng, chiếm 45% nợ xấu hình thành ròng. Do đó, tỷ lệ bao phủ nợ xấu ( LLR) cuối quý I của ngành ngân hàng giảm từ 110% của quý trước xuống còn 92%.
Trong đó, tỷ lệ LLR của nhóm Big4 duy trì trên mức 100%, trong khi tỷ lệ LLR của nhóm ngân hàng TMCP tiếp tục bị bào mòn, xuống mức 56% (từ mức 62% của quý trước).
Cùng với đó, cơ cấu các nhóm nợ xấu của nhóm ngân hàng TMCP quy mô lớn và trung bình cho thấy tỷ trọng nợ nhóm 2, 3 và 4 còn khá lớn so với nhóm 5.
Rủi ro nợ xấu tiềm ẩn
Được biết, Thông tư 02/2023 quy định thời gian cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ được thực hiện đến hết ngày 30/6/2024, sau đó Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư 06 kéo dài thêm 6 tháng thời gian cơ cấu thời hạn trả nợ cho khách hàng (đến 31/12/2024).
Như vậy, rủi ro tiềm ẩn vẫn tồn tại, sau thời điểm 1/1/2025, có thể dẫn đến việc một số khoản nợ tái cơ cấu không còn được hưởng chính sách và buộc phải phân loại lại vào nhóm nợ xấu.

Nợ xấu ngân hàng được dự báo sẽ tiếp tục tăng trong quý II khi xét đến diễn biến tăng ròng mạnh của nợ nhóm 2, ước tính tương đương với quy mô nợ xấu đã hình thành ròng trong quý I và nợ xấu tiềm ẩn còn lớn.
Các chuyên gia VDSC nhận định, nếu phần lớn nợ xấu phát sinh trong quý I bắt nguồn từ việc chuyển nhóm từ nợ nhóm 2 thì quy mô nợ nhóm 2 phát sinh thêm trong kỳ ước tính cũng có thể ở mức cao hơn 70.000 tỷ đồng, tương đương 0,6% quy mô nợ nhóm 1 cuối năm trước.
Với diễn biến này, rủi ro nợ xấu tiếp tục tăng mạnh trong quý tiếp theo là khá cao, nếu như các khoản nợ nhóm 2 này không được xử lý kịp thời.
Nợ xấu tiềm ẩn cao khoảng 193.000 tỷ đồng (gồm nợ VAMC, nợ tiềm ẩn rủi ro và nợ cơ cấu lại theo Thông tư 02) cùng dư nợ của các khách hàng có khả năng bị ảnh hưởng bởi chính sách thuế quan đối ứng cũng sẽ khiến cho xu hướng tăng của nợ xấu chưa thể sớm dừng lại.
Đồng quan điểm, các chuyên gia của Công ty Cổ phần Chứng khoán Tiền Phong (TPS) đánh giá rủi ro nợ xấu tiềm ẩn vẫn hiện diện, đặc biệt khi các ngân hàng bị kiểm soát đặc biệt hiện chiếm gần 5% quy mô GDP . Trong khi đó, bộ đệm dự phòng rủi ro của ngành đã mỏng dần, hiện trở về mức tương đương trước đại dịch COVID-19.
Các chuyên gia TPS cho rằng các ngân hàng thương mại tư nhân quy mô nhỏ với bộ đệm vốn yếu hơn sẽ phải đối mặt với áp lực chi phí dự phòng cao trong năm nay.
Còn các chuyên gia của tổ chức xếp hạng tín nhiệm VIS Rating cũng kỳ vọng chất lượng tài sản ngành ngân hàng có thể cải thiện trong thời gian tới, nhờ thị trường bất động sản dần phục hồi và các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp từ Chính phủ phát huy hiệu quả.
Nhóm phân tích VIS Rating dự báo tỷ lệ nợ có vấn đề sẽ giảm khi khả năng trả nợ của khách hàng cải thiện nhờ các yếu tố như đầu tư công, FDI ổn định, thặng dư thương mại và các nỗ lực cải cách pháp lý sẽ thúc đẩy kinh doanh trong nước và cải thiện dòng tiền của doanh nghiệp.
Với tình trạng nợ xấu vẫn có xu hướng tăng, cộng với áp lực nợ trái phiếu đến hạn trả cao, tập trung ở khu vực doanh nghiệp bất động sản, nhiều chuyên gia kiến nghị Ngân hàng Nhà nước tiếp tục chính sách cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ theo tinh thần của Thông tư 02/2023/TT-NHNN.
Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) dự kiến sẽ được Quốc hội biểu quyết thông qua vào 17/6, kỳ vọng hoàn thiện khung pháp lý để hỗ trợ các ngân hàng xử lý nợ xấu.
Một trong những cơ sở để xây dựng nội dung tại dự thảo, là khoảng trống pháp lý do Nghị quyết 42 hết hiệu lực. Cùng với đó, Ngân hàng Nhà nước cho biết trong bối cảnh thách thức và cơ hội đan xen của giai đoạn vừa qua, biến động vĩ mô và những khó khăn chung khách quan, khiến nợ xấu hiện đang có xu hướng tăng. Việc hoàn thiện khung pháp lý theo đó sẽ là cơ sở để các tổ chức tín dụng có điều kiện xử lý nợ xấu.