Bồi thường thu hồi đất: Cần sòng phẳng, đừng vì ‘thương anh túng quá’

Chính sách bồi thường khi nhà nước thu hồi đất có vai trò hết sức quan trọng, không chỉ tác động đến quyền lợi của người dân mà còn quyết định sự ổn định xã hội và hiệu quả triển khai các dự án phát triển kinh tế - hạ tầng. Theo chuyên gia, chính sách này cần được thiết kế và xây dựng cẩn trọng, đánh giá tác động kỹ lưỡng để đảm bảo quyền lợi của các bên liên quan, tránh tạo thêm bất công, khiếu kiện.

Ai xứng đáng với điều gì?

Tại tờ trình dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất Đai 2024 của Bộ Nông nghiệp và Môi trường gửi Bộ Tư pháp thẩm định, tiền bồi thường khi nhà nước thu hồi đất sẽ căn cứ vào bảng giá đất và hệ số điều chỉnh giá đất. Phương án này được cho là nhằm đơn giản hóa thủ tục, thay vì xác định giá đất cụ thể như hiện nay. Đồng thời, tờ trình cũng đề cập đến việc “cần có chính sách hỗ trợ thỏa đáng đối với người có đất bị thu hồi để hạn chế khiếu nại”. 

Ở góc độ hình thức, phương án này có vẻ “hợp tình hợp lý” khi người dân có thể được “hỗ trợ thỏa đáng” từ việc bồi thường, kỳ vọng rút ngắn thời gian đền bù, từ đó đẩy nhanh tiến độ dự án. Nhưng đi sâu hơn vào bản chất, đây lại là một thiết kế khá rủi ro, thậm chí có thể tái hiện vòng luẩn quẩn khiếu kiện, khiếu nại vốn đã kéo dài nhiều năm khi thực thi Luật Đất đai 2013.

Bồi thường thu hồi đất: Cần sòng phẳng, đừng vì ‘thương anh túng quá’ - Ảnh 1

Trao đổi với VietnamFinance, luật sư Nguyễn Văn Đỉnh (Đoàn luật sư TP. Hà Nội) cho rằng người soạn thảo đã nhận diện, phán đoán chính xác vấn đề khi đề xuất tính tiền bồi thường khi nhà nước thu hồi đất theo bảng giá đất và hệ số điều chỉnh giá đất - “Tiền bồi thường sẽ thấp hơn nhiều so với việc áp dụng giá đất cụ thể như hiện nay dẫn đến phát sinh khiếu nại của người dân khi nhà nước thu hồi đất”. Nhưng giải pháp được đưa ra lại chỉ là “cần có chính sách hỗ trợ thỏa đáng đối với người có đất bị thu hồi để hạn chế khiếu nại”. 

Trong khi đó, theo vị luật sư, tại hội nghị lấy ý kiến cộng đồng doanh nghiệp đối với dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai do Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức vào sáng ngày 15/8, ý tưởng của ban soạn thảo là bồi thường theo bảng giá đất nhân hệ số điều chỉnh, ngoài ra còn “gợi ý” doanh nghiệp là chủ đầu tư được giao đất thực hiện dự án tự nguyện hỗ trợ thêm cho người có đất bị thu hồi. 

Liên quan đến đề xuất trên, theo ông Đỉnh, người dân trong trường hợp bị thu hồi đất xứng đáng được bồi thường sòng phẳng theo nguyên tắc thị trường chứ không phải là bồi thường tượng trưng theo bảng giá và trông chờ người khác “hỗ trợ”.

Vấn đề là ở chỗ, bồi thường và hỗ trợ là hai phạm trù hoàn toàn khác nhau. Tiền bồi thường là khoản mà người dân xứng đáng nhận khi nhà nước thu hồi tài sản của họ, còn tiền hỗ trợ lại mang tính “ban phát”. 

Nếu “nhập nhằng” hai khái niệm này, chính sách sẽ có thể làm giảm tính minh bạch và công khai trong hệ thống pháp luật, đồng thời sẽ tạo ra gánh nặng “ngoài sổ sách” cho doanh nghiệp khi phải chi thêm khoản hỗ trợ “phi chính thức” không được khấu trừ trong nghĩa vụ tài chính. 

Ngoài ra, tại một thời điểm, trên một địa bàn sẽ có nhiều dự án khác nhau của nhiều chủ đầu tư, có chủ đầu tư “hào phóng” hỗ trợ, có doanh nghiệp lại không thể hỗ trợ nhiều do khó khăn tài chính. Điều này dẫn đến sự không công bằng giữa những người sử dụng đất. 

Trong số những người bị thu hồi đất, “đen” nhất chính là người bị giải phóng mặt bằng cho các dự án đầu tư công, ví dụ thu hồi đất để làm đường giao thông, thì mạnh thường quân nào sẽ đứng ra “hỗ trợ thỏa đáng”? Những người thuộc diện này, khi đó chỉ biết nhìn hàng xóm bị thu hồi đất làm dự án đô thị mà “ứa nước mắt”, dù xét về phương diện “xứng đáng” thì hai người như nhau.

“Thử hình dung, hai hộ dân ở cùng một tuyến đường, cùng mất đất cho dự án. Hộ A bị thu hồi đất để làm đường giao thông, chỉ nhận đúng mức bồi thường theo bảng giá đất. Hộ B bị thu hồi để làm khu đô thị, lại được chủ đầu ‘hỗ trợ’ thêm. Kết quả là người mất đất ít hơn có thể nhận được nhiều tiền hơn và ngược lại. Liệu sự so sánh này có làm gia tăng khiếu kiện và bức xúc? Câu trả lời gần như chắc chắn là có.

Bồi thường thu hồi đất: Cần sòng phẳng, đừng vì ‘thương anh túng quá’ - Ảnh 2

“Và nếu thiết kế chính sách theo phương án này, ‘cái bóng’ của Luật Đất đai 2013, với 70-80% các vụ khiếu kiện có liên quan đến đất đai, có thể sẽ quay trở lại”, luật sư Đỉnh phân tích.

“Chính sách ‘bồi thường tượng trưng, hỗ trợ tùy hứng’ không chỉ bất công mà còn thiếu nền tảng bền vững. Suy rộng ra, pháp luật không nên được thiết kế với giả định người thực thi là những ‘người tốt’, chờ đợi các doanh nghiệp sẽ đóng vai các mạnh thường quân, tự nguyện rút hầu bao hỗ trợ cho người dân, như vậy sẽ rất rủi ro. Giả định hợp lý là người thực thi sẽ tuân thủ đúng quy định của pháp luật” - ông Nguyễn Văn Đỉnh nói thêm.

Thiết kế chính sách sòng phẳng, minh bạch 

Luật sư Nguyễn Văn Đỉnh cho rằng nhà nước đứng ở giữa trong các quan hệ đất đai mà một bên là các doanh nghiệp có nhu cầu tiếp cận đất đai và một bên là người dân đang có quyền sử dụng đất. Hai nhóm chủ thể này có quyền lợi đối nghịch nhau trong khi tài nguyên đất đai thì hữu hạn. 

Do đó, theo vị chuyên gia, khi nhà nước thu hồi đất, điều tối thiểu phải làm là đền bù một cách sòng phẳng, minh bạch. “Khi nhà nước lấy đi của dân một thứ tài sản quý giá thì phải hoàn trả lại họ một cách tương xứng, đừng bắt người dân phải hy sinh thứ tài sản ấy, rồi đưa cho họ một khoản hỗ trợ vì thương anh túng quá” - ông Đỉnh nhấn mạnh. 

Việc bình ổn giá đất sẽ có lợi cho hoạt động sản xuất của doanh nghiệp, giúp thể chế hóa Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân và đáp ứng mục tiêu tăng trưởng 8%/năm. Tuy nhiên, theo phương án sửa đổi thì giá đất theo bảng giá đất (áp dụng 5 năm) và hệ số điều chỉnh giá đất sẽ được sử dụng làm căn cứ tính tiền bồi thường khi nhà nước thu hồi đất (khác với quy định hiện nay là phải xác định giá đất cụ thể để tính tiền bồi thường). Để giảm thiểu bất công, Luật quy định giá đất để tính tiền bồi thường phải là giá đất cụ thể, được tính toán thật sòng phẳng theo nguyên tắc thị trường.

Kinh nghiệm từ Luật Đất đai 2013 cho thấy, việc xác định giá đất cụ thể để bồi thường, dù phức tạp hơn về thủ tục nhưng lại là cơ sở quan trọng để đảm bảo công bằng. Khi giá bồi thường tiệm cận thị trường, người dân có thể chấp nhận nhường đất mà không cảm thấy bị thiệt thòi, đồng thời giảm đáng kể nguy cơ khiếu kiện.

Một điểm đáng chú ý khác là, nếu luật hóa việc “trông chờ doanh nghiệp hỗ trợ”, rất dễ hình thành một cơ chế xin - cho mới: doanh nghiệp nào “mạnh tay” thì dân ít khiếu kiện, doanh nghiệp khó khăn thì tiến độ ách tắc. Hậu quả là, môi trường đầu tư thiếu ổn định, kỷ luật pháp luật có nguy cơ bị bào mòn. 

Đất đai là nguồn lực hữu hạn, nhà nước đóng vai trò “trọng tài” đứng giữa hai bên: người dân và doanh nghiệp. Do đó, luật phải tạo ra một cơ chế minh bạch, cân bằng lợi ích để người dân nhận được bồi thường tương xứng, đủ để ổn định cuộc sống, còn doanh nghiệp có thể tự tính chi phí bồi thường ngay từ đầu, tránh phát sinh những khoản chi mập mờ. 

“Luật cần thiết kế một quy chế minh bạch, hài hòa lợi ích giữa nhà nước, doanh nghiệp, người dân và biện pháp bảo đảm để các bên thực hiện đúng quy chế đó và khi đó quyền lợi của các bên sẽ được đảm bảo” - ông Nguyễn Văn Đỉnh nhấn mạnh.

Lê Tâm

Theo Vietnamfinance