Kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm 2022 GDP đạt 5 và 7%

Ngày 15/07, tại TP Hà Nội, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương ( Bộ Kế hoạch và Đầu tư) tổ chức Hội thảo công bố Báo cáo “Kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm 2022: Cải cách và phát triển bền vững”.

Phát biểu tội thảo, bà Trần Thị Hồng Minh - Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) cho biết, Việt Nam có nhiều điều kiện để phục hồi và phát triển kinh tế khi các biện pháp phòng chống dịch đã phát huy hiệu quả, các rào cản về xuất nhập cảnh cũng được dỡ bỏ. Những kết quả đạt được trong 6 tháng đầu năm là tiền đề quan trọng cho việc thực hiện các mục tiêu của cả năm 2022.

Quang cảnh hội thảo.
Quang cảnh hội thảo.

Báo cáo thể hiện các nội dung chính sau: Cập nhật, phân tích, đánh giá diễn biến kinh tế vĩ mô trong sáu tháng đầu năm 2022 kèm theo những phân tích và nhận định đa chiều của các chuyên gia và của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương; Cập nhật đánh giá triển vọng kinh tế vĩ mô cho cả năm 2022; Phân tích cụ thể yêu cầu nâng cao năng suất lao động và phục hồi xanh ở Việt Nam trong bối cảnh hiện nay; và  Kiến nghị một số định hướng đổi mới kinh tế (bao gồm cả thể chế kinh tế) và giải pháp chính sách cho điều hành kinh tế vĩ mô trong sáu tháng còn lại của năm 2022 và các năm tiếp theo.

Sau hơn hai năm kể từ khi bắt đầu đại dịch COVID-19, kinh tế thế giới vẫn gặp nhiều khó khăn ảnh hưởng đến đà phục hồi, triển vọng tăng trưởng kinh tế toàn cầu cũng trở nên kém tích cực hơn. Xung đột Nga-Ucraina đã có những ảnh hưởng sâu rộng, kéo dài ở bình diện toàn cầu đối với giá cả hàng hóa cơ bản, chuỗi cung ứng, an ninh lương thực và an ninh năng lượng.

Thị trường hàng hóa thế giới chịu nhiều áp lực về nguồn cung và giá cả. Bên cạnh những nguyên nhân do dịch COVID-19 và hệ lụy đối với chuỗi cung ứng, xung đột ở Ucraina đã tăng thêm áp lực đối với giá lương thực và năng lượng. Đối mặt với áp lực lạm phát gia tăng, một số chính phủ đã và đang cân nhắc giảm dần và dừng các biện pháp hỗ trợ về tài chính-tài khóa. 

Từ đầu năm 2022, Chính phủ Việt Nam tiếp tục thực hiện cách tiếp cận “thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh COVID-19”. Cùng với việc kiểm soát tốt dịch COVID-19, tỷ lệ bao phủ vắc xin được cải thiện và số ca nhiễm liên tục giảm, các biện pháp hạn chế đối với xuất nhập cảnh đã dần được dỡ bỏ.

Việt Nam đã triển khai nhiều chính sách nhằm thúc đẩy phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội, và nhấn mạnh ưu tiên cho ổn định nền kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát. Chính phủ, các bộ ngành tiếp tục đề ra và tập trung thực hiện các biện pháp quyết liệt nhằm thúc đẩy giải ngân đầu tư công.

Hỗ trợ người lao động và các nhóm yếu thế trong xã hội cũng là một ưu tiên quan trọng nhằm giảm bớt khó khăn, tạo điều kiện cho quá trình thích ứng với bối cảnh làm việc mới.

Các số liệu thống kê đã cho thấy đà phục hồi tích cực của kinh tế Việt Nam. Tốc độ tăng GDP đạt 5,03% trong quý I/2022, và 7,72% trong quý II/2022, tốc độ tăng trưởng tương đối cao so với khu vực châu Á. Đà phục hồi tăng trưởng được thể hiện rõ nét ở cả ba khu vực, đặc biệt là dịch vụ. 

Trong lĩnh vực lao động, việc làm, nhờ các giải pháp, chính sách kịp thời hỗ trợ hoạt động sản xuất, kinh doanh, và hỗ trợ người lao động, tình hình lao động-việc làm đã sớm có những chuyển biến tích cực. Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên trong quý II/2022 đạt 51,6 triệu người, tăng gần 0,6 triệu người so với cùng kỳ năm trước.  

Dù vậy, cung lao động chưa đáp ứng được nhu cầu sử dụng của các doanh nghiệp trong giai đoạn phục hồi kinh tế, đặc biệt đối với lao động có trình độ chuyên môn cao. Số lao động làm công việc tự sản tự tiêu 6 tháng đầu năm 2022 là gần 4,6 triệu người, cao hơn 0,7 triệu người so với cùng kỳ năm trước và chủ yếu ở khu vực nông thôn (chiếm 89,6%), trong đó, 62,8% là nữ giới. Có thể thấy, khu vực nông thôn và lao động nữ còn chậm thích ứng với các cơ hội trong quá trình phục hồi kinh tế. 

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) có xu hướng tăng nhanh hơn trong 6 tháng đầu năm 2022 chủ yếu do giá nhiên liệu thế giới và tổng cầu tăng mạnh. Lạm phát cơ bản vẫn ổn định ở mức tương đối thấp. Điều này phần nào cho thấy hiệu lực và hiệu quả của công tác điều hành chính sách tiền tệ.

Mặt bằng lãi suất huy động tăng, phổ biến từ 0,1 – 0,2% tại các kỳ hạn, chủ yếu do: kỳ vọng lạm phát trong nước tăng; và các ngân hàng thương mại (NHTM) thu hút tiền gửi nhằm đáp ứng nhu cầu vay vốn trong bối cảnh phục hồi sản xuất kinh doanh sau COVID-19.

Lãi suất cho vay tương đối ổn định do: cân nhắc của các NHTM trong việc hạn chế tăng lãi suất cho vay; các NHTM thận trọng hơn trong việc cho vay đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro (bất động sản, chứng khoán...; chênh lệch giữa lãi suất cho vay-lãi suất huy động còn đủ lớn. Tăng trưởng dư nợ tín dụng đạt gần 6,0% và 3,2% tương ứng trong các quý I/2022 và quý II/2022 so với quý trước đó, thậm chí còn vượt trội so với cùng kỳ năm 2021, và năm 2018-2019.

Hoạt động đầu tư trong 6 tháng đầu năm 2022 đã phục hồi khá tích cực. Tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội ước đạt 1.301,2 nghìn tỷ đồng (giá hiện hành), tăng 9,6% so với cùng kỳ. Trong đó, khu vực ngoài nhà nước ghi đạt 739,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 56,8% tổng vốn đầu tư toàn xã hội (theo giá hiện hành).

Vốn FDI thực hiện trong 6 tháng đầu năm đã phục hồi vượt mức cùng kỳ năm 2019. Việt Nam vẫn duy trì sức hút đối với dòng vốn FDI nhờ một số nguyên nhân như kiểm soát dịch COVID-19 hiệu quả, một loạt FTA quan trọng, và duy trì đà cải cách môi trường kinh doanh.

Tuy nhiên, Việt Nam đang đối mặt với một số thách thức mới là: sàng lọc các nhà đầu tư nước ngoài có thể đáp ứng, tuân thủ và đóng góp vào phát triển bền vững ở Việt Nam; khu vực bất động sản chiếm tỷ trọng lớn thứ hai trong thu hút FDI, có thể tạo thêm áp lực cạnh tranh đối với các doanh nghiệp bất động sản trong nước, trong khi các doanh nghiệp này đã gặp khó khăn lớn hơn khi tiếp cận nguồn vốn trong nước; chưa có chương trình hành động chính thức nhằm đẩy mạnh áp dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong xúc tiến đầu tư.  

Trong 6 tháng đầu năm 2022, hoạt động xuất nhập khẩu tăng trưởng khá nhanh. Tổng giá trị xuất khẩu đạt hơn 186,0 tỷ USD, tăng 17,3%. Tổng giá trị nhập khẩu đạt hơn 185,3 tỷ USD, tăng 15,5%. Việt Nam xuất siêu gần 743 triệu USD. Việc khai thác các FTA tiếp tục giúp Việt Nam đa dạng hóa thị trường, đồng thời giảm được rủi ro phụ thuộc vào một số thị trường cụ thể. Tuy nhiên, rủi ro gặp phải các vụ việc phòng vệ thương mại cũng có xu hướng gia tăng. 

Triển vọng kinh tế Việt Nam trong nửa cuối năm 2022 có thể chịu ảnh hưởng của một số yếu tố như: khả năng kiểm soát sự lây lan của các biến thể COVID-19 và các dịch bệnh mới; tiến độ thực hiện các nhiệm vụ trong Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội; duy trì ổn định kinh tế vĩ mô vẫn là nền tảng quan trọng, để giúp ổn định tâm lý thị trường và “neo” kỳ vọng lạm phát; khả năng đa dạng hóa các thị trường xuất khẩu, gắn với tận dụng cơ hội từ các FTA và xử lý các rủi ro gắn với đối đầu thương mại-công nghệ giữa các siêu cường, xu hướng giảm giá của các đồng tiền ở khu vực so với USD. khả năng tạo thêm cơ hội và kỹ năng cho lao động nữ, qua đó giúp tận dụng tiềm năng từ nhóm lao động này, đặc biệt là ở khu vực nông thôn. 

Báo cáo đưa ra 2 kịch bản cập nhật dự báo kinh tế Việt Nam 2022. Theo đó, tăng trưởng kinh tế năm 2022 có thể đạt mức 6,7% theo Kịch bản 1, và 6,9% trong Kịch bản 2. Xuất khẩu cả năm dự báo tăng 15,8% trong Kịch bản 1 và tăng 16,3% trong Kịch bản 2. Thặng dư thương mại dự báo tương ứng ở các mức 1,2 tỷ USD và 2,5 tỷ USD. Lạm phát bình quân năm 2022 dự báo lần lượt ở mức 4,0% và 3,7%.

Việt Nam đã có kinh nghiệm xử lý tác động phức tạp của tình hình dịch bệnh COVID-19, rủi ro suy thoái kinh tế thế giới, trong khi áp lực lạm phát trong nước đã trở nên hiện hữu hơn. Dù vậy, bối cảnh 6 tháng cuối năm 2022 và năm 2023 sẽ đặt Việt Nam trước những yêu cầu cải cách và điều hành mới. Trong bối cảnh này, việc duy trì “công thức” từ những năm trước đó – duy trì ổn định kinh tế vĩ mô để tạo điều kiện cho cải cách thể chế kinh tế mạnh mẽ theo hướng thị trường hiện đại – càng có ý nghĩa quan trọng.

Báo cáo “Kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm 2022: Cải cách và phát triển bền vững” nhấn mạnh lại thông điệp cần tiếp tục tập trung vào cải thiện nền tảng kinh tế vi mô và đổi mới hệ thống thể chế kinh tế theo hướng thân thiện hơn với sáng tạo và phục hồi xanh, gắn với củng cố ổn định kinh tế vĩ mô ở Việt Nam.

Văn Trì

Theo Chất lượng và cuộc sống