Thuế đối ứng Mỹ: Sức ép chuyển đổi khu công nghiệp sang chu kỳ mới
Thuế đối ứng, cùng với yêu cầu về chuỗi cung ứng bền vững từ các tập đoàn đa quốc gia, giống như một cú thúc trong tiến trình chuyển đổi mô hình KCN.
Thách thức trong ngắn hạn
Trong giai đoạn 2018 - 2024, căng thẳng thương mại Mỹ - Trung thúc đẩy làn sóng dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu, giúp Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn cho FDI nhờ vị trí địa lý thuận lợi, chi phí cạnh tranh và khả năng tiếp cận thị trường Mỹ. Nhiều doanh nghiệp Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan đã chọn Việt Nam để đặt cơ sở sản xuất phục vụ xuất khẩu.
Tuy nhiên, việc Tổng thống Mỹ Donald Trump áp dụng thuế đối ứng lên nhiều đối tác thương mại với chủ trương đưa sản xuất trở lại Mỹ, đã bắt đầu làm thay đổi cục diện kể trên. Nhiều ý kiến lo ngại xu hướng này có thể làm chậm lại dòng vốn FDI mới vào lĩnh vực sản xuất định hướng xuất khẩu, từ đó gây áp lực lên nhu cầu thuê đất công nghiệp, vốn là động lực chính thúc đẩy thị trường bất động sản KCN Việt Nam những năm qua.
Trong trao đổi với VietnamFinance, ông Ngô Nghị Cương - Chuyên gia tư vấn đầu tư nước ngoài kiêm Giám đốc điều hành Công ty Tư vấn và Đầu tư C+ đánh giá, mức thuế 20% mà Mỹ áp lên hàng hóa Việt Nam chắc chắn sẽ tạo sức ép lên các ngành xuất khẩu vốn phụ thuộc lớn vào thị trường này.
Tuy nhiên, ông cho rằng mức thuế 20% không khiến Việt Nam đánh mất lợi thế cạnh tranh trong khu vực. Bởi lẽ, các quốc gia thu hút FDI tương đồng như Thái Lan, Malaysia và Indonesia cũng chịu mức thuế gần tương đương (19%), trong khi Ấn Độ thậm chí bị áp thuế cao hơn, tới 25%. “Như vậy, so với các đối thủ chính, vị thế của Việt Nam trước và sau khi áp thuế vẫn tương đối cân bằng”, ông nhận định.
Dù vậy, trong ngắn hạn, tác động là khó tránh. Thuế cao hơn khiến nhiều doanh nghiệp xuất khẩu buộc phải xem lại chiến lược vận hành, thậm chí tái cấu trúc chuỗi cung ứng. Điều này có thể kéo theo sự chững lại về nhu cầu thuê đất, mở rộng nhà xưởng trong các khu công nghiệp, đặc biệt tại những địa bàn tập trung xuất khẩu.
“Điều này sẽ xảy ra trong ngắn hạn khi các doanh nghiệp xuất khẩu buộc phải điều chỉnh chiến lược phát triển trong đó bao gồm đa dạng hoá chuỗi cung ứng, tăng cường nội địa hoá và tăng tuân thủ quy tắc xuất xứ hàng hoá, tức doanh nghiệp sẽ cần thời gian điều chỉnh và tăng cường nội lực trước khi đầu tư thêm.
Ngoài ra, đứng trước các biến động khó lường, doanh nghiệp xuất khẩu sẽ ưu tiên tối ưu hoá việc sử dụng tài nguyên bao gồm nhà xưởng và đất thuê. Họ sẽ cải tạo và nâng cấp trước khi nghĩ đến xây mới”, ông Cương cho hay.

Song, về dài hạn, đại diện công ty C+ cho rằng, tình hình sẽ được cải thiện tuỳ vào khả năng đa dạng hoá thị trường xuất khẩu và năng lực tái cấu trúc chuỗi cung ứng của doanh nghiệp, trong đó, các doanh nghiệp xuất khẩu có thâm niên sẽ có ưu thế hơn các doanh nghiệp mới gia nhập thị trường.
Đồng quan điểm, các chuyên gia VCBS nhận định: “Sau khi có công bố về thuế đối ứng, VCBS quan sát thấy phần lớn các doanh nghiệp FDI đã kí MOU vẫn tiếp tục thực hiện hợp đồng và dịch chuyển sản xuất (đặc biệt các doanh nghiệp Trung Quốc). Tuy vậy nhìn chung từ quý II/2025, hoạt động khảo sát, đăng kí đầu tư mới đã có phần chững lại khi các khách hàng có xu hướng thận trọng để chờ các thỏa thuận đàm phán chi tiết và mối tương quan thuế suất giữa Việt Nam và các quốc gia khác”.
Ngoài ra, một số doanh nghiệp xuất khẩu sẽ phải hi sinh biên lợi nhuận để hấp thụ 1 phần áp lực tăng giá do thuế quan. Do đó, hoạt động sản xuất có thể chững lại, hoặc thậm chí chuyển một phần hoạt động sang quốc gia khác đối với các ngành có biên lợi nhuận thấp và không đòi hỏi lớn về trình độ nhân công và chuỗi logistics (dệt may, da giày). Điều này sẽ ảnh hưởng nhất định đến các kế hoạch mở rộng/ đầu tư mới của các doanh nghiệp và doanh số thuê đất tại các KCN, ít nhất là trong ngắn hạn, các chuyên gia VCBS nói.
Tuy nhiên, giai đoạn 2027 – 2029 sẽ là giai đoạn tăng trưởng trở lại của BĐS KCN. Trong dài hạn, khả năng thu hút đầu tư của Việt Nam và hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp BĐS KCN vẫn được đánh giá là tích cực.
Cụ thể, các nhà nhập khẩu, người tiêu dùng Mỹ có thể dần quen với mặt bằng giá mới, tạo điều kiện cho việc phục hồi quy mô đơn hàng và biên lợi nhuận cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Trong khi đó, quá trình dịch chuyển một phần sản xuất từ Trung Quốc đến các quốc gia lân cận để đa dạng hóa nguồn cung ứng là không thể đảo ngược. Việt Nam vẫn sở hữu nhiều lợi thế để thu hút các “đại bàng” và doanh nghiệp vệ tinh như Samsung, LG, Foxconn,...
Sự xuất hiện của các dự án logistics và chuỗi hạ tầng kết nối dần hoàn thiện cũng sẽ giúp tạo nên lợi thế cạnh tranh tốt so với các đối thủ lân cận, từ đó, góp phần thúc đẩy sự phát triển trở lại của các doanh nghiệp BĐS KCN.
Từ thách thức đến cú hích chuyển mình
Một mặt, thuế đối ứng từ Mỹ sẽ tạo ra áp lực trong ngắn hạn đối với hoạt động xuất khẩu và dòng vốn FDI nhưng mặt khác, đây cũng có thể là cú hích thúc đẩy các doanh nghiệp BĐS KCN tại Việt Nam chuyển mình theo hướng bền vững hơn.
Theo ông Ngô Nghị Cương, thuế đối ứng lần này, cùng với yêu cầu về chuỗi cung ứng bền vững từ các tập đoàn đa quốc gia, giống như một "cú thúc" trong tiến trình chuyển đổi mô hình KCN. “Nó xảy ra đúng lúc Việt Nam đang tái tổ chức lại không gian phát triển, nhiều địa phương thực hiện sáp nhập. Đây là cơ hội để định hình lại chiến lược phát triển theo hướng chất lượng và dài hạn”, ông nói.
Các doanh nghiệp Việt phải nhanh chuyển hướng mô hình phát triển KCN thu hút FDI bằng chi phí điện nước thấp, quỹ đất lớn, và lợi thế nhân công rẻ sang mô hình KCN thông minh - xanh, hàm lượng công nghệ cao, có đầu tư vào nghiên cứu và phát triển (R&D) và tiến tới kinh tế tuần hoàn, đại diện C+ nhấn mạnh.
Tuy nhiên, theo ông, quá trình này sẽ có sự phân tầng bởi không phải chủ đầu tư KCN nào cũng sẵn sàng cho mô hình mới. Thực tế cho thấy, dù Nghị định 35 đã đề ra mục tiêu đến năm 2030, có 40 - 50% địa phương xây dựng kế hoạch chuyển đổi KCN hiện hữu sang sinh thái, nhưng đến nay, chưa đến 5% các KCN có bước chuyển đổi rõ nét, phần lớn đến từ các dự án do doanh nghiệp FDI làm chủ đầu tư.

Chưa kể, một KCN thông minh cần phải được quy hoạch đồng bộ từ quản lý hạ tầng, theo dõi năng lượng, lưu giữ và sử dụng dữ liệu, logistics thông minh, tích hợp IoT, và nhiều dịch vụ tiện ích khác đều phải “thông minh”.
“Trong tình hình khó khăn như vừa phân tích ở trên, hiện nay rất ít chủ đầu tư khu công nghiệp có tiềm lực tài chính và nhân lực để thực hiện việc chuyển đổi này. Sự hỗ trợ của nhà nước là cần thiết trong quá trình chuyển đổi mô hình”, ông nói.
Bên cạnh đó, ông Ngô Nghị Cương nhấn mạnh, đã đến lúc Việt Nam cũng như hệ sinh thái KCN phải tự chủ - tự cường để không phụ thuộc vào một thị trường nào dù là thị trường xuất khẩu hay chuỗi cung ứng. Việc xây dựng hệ sinh thái KCN theo mô hình “xanh - tự chủ - bền vững” cũng phù hợp với đòi hỏi của dòng vốn FDI thế hệ mới hướng đến xanh và bền vững.
Xét lịch sử phát triển của KCN trong nước, các KCN truyền thống đầu tiên phát triển gần 15 năm đến mô hình tích hợp KCN - Đô thị - Dịch vụ. Mô hình này cũng phát triển được 10 năm. Đến giai đoạn 2015 - 2019, Việt Nam có 4 khu công nghiệp chuyển đổi sang mô hình KCN sinh thái dưới sự hỗ trợ của Bộ Kế hoạch Đầu tư (nay là Bộ Tài chính) và Tổ chức Phát triển công nghiệp Liên hiệp quốc (UNIDO). Tính đến nay, mô hình KCN sinh thái cũng có lịch sử phát triển gần 10 năm nhưng kết quả còn khiêm tốn.
Theo đại diện C+, Việt Nam hoàn toàn có thể tham khảo và học tập quá trình chuyển đổi này của Hàn Quốc. Dưới sức ép của phát triển sản xuất ưu tiên ngành trọng yếu, cạnh tranh nội sinh và tái cấu trúc chuỗi cung ứng, các khu công nghiệp của Hàn Quốc đã thực hiện chuyển đổi mô hình truyền thống sang mô hình KCN sinh thái trong vòng 15 năm chia làm 3 giai đoạn với sự trợ giúp của chính phủ. Theo đó, giai đoạn 1 chọn vài KCN tiêu biểu thực hiện trước việc chuyển đổi. Giai đoạn 2 mở rộng liên hệ vùng và chuỗi cung ứng khu vực xung quanh các KCN sinh thái đã chuyển đổi thành công. Giai đoạn 3 kết nối khép kín giữa các tiểu vùng qua đó liên kết toàn bộ các KCN sinh thái.
“Bài học từ thành công của Hàn Quốc trong chuyển đổi mô hình KCN sinh thái là sự dẫn dắt của chính phủ, sự tham gia của khu vực kinh tế tư nhân, và sự hỗ trợ của các tổ chức tín dụng. Việt Nam hoàn toàn có thể chuyển đổi thành công sang một chu kỳ phát triển khu công nghiệp mới", ông Cương nhận định.