Tỷ lệ lấp đầy của các khu công nghiệp đang hoạt động đạt trên 75%
Tính trung bình, tỷ lệ lấp đầy của các khu công nghiệp đang hoạt động đạt trên 75%. Trong đó, tại các tỉnh trọng điểm phía Bắc là 82% và các tỉnh trọng điểm phía Nam đạt 92%.
Tính đến hết quý 1/2024, cả nước có 418 khu công nghiệp, khu chế xuất với tổng diện tích gần 1,3 triệu ha đất, bao gồm 371 khu nằm ngoài các khu kinh tế, 39 khu nằm trong các khu kinh tế ven biển và 8 khu nằm trong các khu kinh tế cửa khẩu.
Các khu công nghiệp, khu kinh tế đã thu hút hơn 10.400 dự án đầu tư trong nước và trên 11.200 dự án FDI còn hiệu lực, với tổng vốn đầu tư đăng ký trên 2,54 triệu tỷ đồng và 231 tỷ USD. Vốn FDI trong khu công nghiệp, khu kinh tế chiếm khoảng 35 - 40% tổng vốn FDI đăng ký tăng thêm của cả nước trong những năm gần đây. Các khu công nghiệp, khu kinh tế đã tạo việc làm cho khoảng 4,15 triệu lao động trực tiếp. Trong đó, tập trung chủ yếu tại các vùng Đông Nam Bộ và vùng Đồng bằng sông Hồng, chiếm lần lượt 41,3% và 30,3% tổng số lao động làm việc trong khu công nghiệp trên cả nước.
Tính trung bình, tỷ lệ lấp đầy của các khu công nghiệp đang hoạt động đạt trên 75%. Trong đó, tại các tỉnh trọng điểm phía Bắc là 82% và các tỉnh trọng điểm phía Nam đạt 92%. Nhu cầu ở mức cao và luôn trong xu hướng tăng đẩy giá thuê đất công nghiệp tăng ổn định từ 8-12% theo năm. Khu vực miền Bắc chứng kiến mức tăng giá mạnh nhất, với giá thuê khu công nghiệp trung bình là 135 USD/m2/ chu kỳ thuê. Tại miền Nam, giá thuê trung bình đạt 188 USD/m2/chu kỳ thuê.
Bên cạnh đó, nhu cầu kho bãi, nhà xưởng xây sẵn cho thuê cũng tiếp tục phát triển mạnh, chủ yếu đến từ ngành công nghiệp sản xuất, thương mại điện tử, máy móc, linh kiện điện tử. Giá thuê kho bãi, nhà xưởng xây sẵn dao động từ 4 - 5 USD/m2/tháng.
Đề cập đến diễn biến trên, Hội Môi giới bất động sản Việt Nam (VARS) cho rằng, nhờ vào môi trường chính trị ổn định và các chính sách ưu đãi thuế, Việt Nam được đánh giá là điểm đến hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, sự phát triển mạnh của cơ sở hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng giao thông và logistics đã giúp kết nối tốt hơn giữa các khu công nghiệp và các thị trường tiêu thụ trong, ngoài nước. Cùng với đó là cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu và thu hút đầu tư khi Việt Nam tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do (FIA) như CPTPP, EVFTA, và RCEP. Đồng thời, việc dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu, đặc biệt là từ Trung Quốc, đã góp phần quan trọng thúc đẩy nhu cầu bất động sản công nghiệp tại Việt Nam.
Hơn nữa, Việt Nam đang có lợi thế cơ cấu dân số vàng. Với lực lượng lao động trẻ, đông đảo và chi phí cạnh tranh so với nhiều nước trong khu vực, đây là cơ hội để ngành công nghiệp bứt phá, phát triển nhanh. Thực tế cho thấy tất cả các nước công nghiệp mới NICs (con rồng châu Á) đều cất cánh bay lên nhờ đã tận dụng thành công giai đoạn cơ cấu dân số vàng.
VARS cho rằng thị trường bất động sản công nghiệp Việt Nam phát triển đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế quốc gia, cải thiện cơ sở hạ tầng, thu hút đầu tư nước ngoài và tạo ra nhiều cơ hội việc làm. Thị trường này vẫn còn rất nhiều dư địa tăng trưởng trong tương lai, hứa hẹn sẽ tiếp tục duy trì đà phát triển mạnh mẽ.
Nhiều chuyên gia cũng cho rằng giá thuê đất khu công nghiệp dự kiến tiếp tục tăng cao, do nguồn cung đất hạn chế trong ngắn hạn, mà nhu cầu đang cao. Để tiếp tục duy trì lợi thế thu hút đầu tư, hàng loạt tỉnh, thành phố phía Bắc đã gấp rút hoàn thiện, công bố quy hoạch tổng thể và định hướng phát triển của tỉnh trong giai đoạn tới năm 2030, nhằm tăng sức hút, kéo các “đại bàng” FDI về lựa chọn tỉnh mình làm “tổ”.