Phát triển KCN ở Việt Nam và nhu cầu thu hút đầu tư vào các KCN đến năm 2030
Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, sau 30 năm hình thành và phát triển hệ thống các khu công nghiệp ở Việt Nam đã bao phủ 61/63 tỉnh thành (trừ 2 tỉnh Điện Biên và Lai Châu chưa có khu công nghiệp được thành lập).
Tình hình phát triển các khu công nghiệp ở Việt Nam
Tính đến hết năm 2023, hệ thống các khu công nghiệp, khu kinh tế gồm có:
- 414 khu công nghiệp, trong đó có 4 khu chế xuất, được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên 128.126 ha, tổng diện tích đất công nghiệp 89.126 ha chiếm khoảng 69% diện tích đất của các khu công nghiệp đã thành lập.
Trong số 414 khu công nghiệp đã thành lập nêu trên có 293 khu công nghiệp đã đi vào hoạt động thu hút đầu tư, với tổng diện tích đất tự nhiên 89.171 ha, trong đó diện tích đất công nghiệp đạt khoảng 63.116 ha; 121 khu công nghiệp đang trong giai đoạn đền bù giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ bản có tổng diện tích tự nhiên 35.517 ha. Tổng diện tích đất công nghiệp đã cho thuê của 293 khu công nghiệp đang hoạt động là 46.551 ha, đạt tỷ lệ lấp đầy gần 74%.
- 26 khu kinh tế cửa khẩu được thành lập tại 21 tỉnh biên giới đất liền, với tổng diện tích 766.000 ha.
- 18 khu kinh tế ven biển được thành lập tại 17 tỉnh , thành phố ven biển với tổng diện tích mặt đất và mặt nước gần 871.523 ha trong đó có khoảng 100.000 ha đất quy hoạch phát triển các khu chức năng, bao gồm 9.000 ha phát triển khu phi thuế quan, 43.000 ha phát triển khu công nghiệp trong khu kinh tế và 48.000 ha phát triển khu chức năng thương mại, du lịch, dịch vụ.
Thực trạng thu hút đầu tư vào khu công nghiệp
Đầu tư phát triển hạ tầng khu công nghiệp
Chi phí đầu tư phát triển hạ tầng khu công nghiệp có xu hướng tăng nhanh. Theo tính toán của Viện Nghiên cứu Đầu tư quốc tế (ISC) dựa trên đơn giá đền bù đất của các địa phương, chi phí san lấp mặt bằng và định mức xây dựng bình quân của Bộ Xây dựng thời gian qua, tổng vốn đầu tư phát triển hạ tầng khu công nghiệp đến hết năm 2022 đạt khoảng 28 tỷ USD, trong đó vốn đầu tư nước ngoài 9,3 tỷ USD (nguồn MPI), vốn đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam đạt khoảng 19 tỷ USD.
Đầu tư sản xuất trong khu công nghiệp
Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đến hết năm 2022 đã có hơn 21.600 dự án đầu tư vào các khu công nghiệp đang hoạt động với tổng vốn đầu tư với tổng vốn đầu tư hơn 318 tỷ USD, trong đó:10.400 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư 2,54 triệu tỷ đồng, tương đương 106 tỷ USD; 11.200 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư 212 tỷ USD; hiệu suất sử dụng đất bình quân (suất đầu tư) đạt 4,61 triệu USD/ha; giải quyết việc làm cho khoảng 4 triệu lao động.
Hiện đã có các doanh nghiệp của 65 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào các khu công nghiệp Việt Nam, trong đó 10 đối tác đầu tư lớn nhất là đã chiếm 91% tổng vốn FDI vào các khu công nghiệp là: Hàn Quốc (24%), Nhật Bản (17%), Singapore (14%), Đài Loan (Trung Quốc – 12%), Hồng Kông (Trung Quốc - 8%), Trung Quốc (6%), Hà Lan (3%), BritishVirgin Island (3%), Samoa (2%), Malaysia (2%).
Đánh giá kết quả và hạn chế trong thu hút đầu tư phát triển các khu công nghiệp, khu kinh tế thời gian qua
Các khu công nghiệp, khu kinh tế thời gian qua đã đóng góp tích cực vào thành tựu tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam thể hiện qua các mặt chủ yếu là:
- Thu hút được một lượng vốn đầu tư lớn bổ sung nguồn lực cho đầu tư phát triển;
- Đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chuyển đổi không gian phát triển, thúc đẩy liên kết vùng, liên kết ngành, tạo nền tảng quan trọng cho tăng trưởng bền vững;
- Góp phần giải quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động và tăng năng suất lao động;
- Góp phần tích cực vào công tác bảo vệ môi trường và định hướng tăng trưởng xanh.
Bên cạnh kết quả đạt được, việc thu hút đầu tư phát triển khu công nghiệp, khu kinh tế đã bộc lộ những hạn chế cần được khắc phục:
- Quy hoạch định hướng phát triển các khu công nghiệp, khu kinh tế còn một số bất cập, thiếu tầm nhìn tổng thể, dài hạn, còn dàn trải theo địa giới hành chính, thiếu liên kết ngành và liên kết vùng.
- Chất lượng hiệu quả thu hút đầu tư chưa đáp ứng yêu cầu phát triển theo chiều sâu; liên kết hợp tác trong khu công nghiệp, khu kinh tế, giữa các khu với nhau và giữa khu công nghiệp, khu kinh tế với khu vực bên ngoài còn hạn chế.
- Loại hình phát triển chậm được đổi mới, phát triển chưa bền vững và cân bằng về kinh tế, xã hội, môi trường; hiệu quả sử dụng đất, sử dụng lao động chưa cao. Các địa phương và nhà đầu tư phát triển hạ tầng khu công nghiệp trong nước vẫn ưu tiên tập trung thu hút đầu tư lấp đầy khu công nghiệp, chưa thực sự chú trọng tới cơ cấu ngành nghề, công nghệ, yếu tố môi trường và xã hội của dự án đầu tư, nên hiệu quả đầu tư phát triển các khu công nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra.
- Chủ đầu tư các dự án kinh doanh hạ tầng KCN Việt Nam do năng lực tài chính hạn chế, có tâm lý chờ đợi tìm được nhà đầu tư thứ cấp rồi mới đầu tư hạ tầng dùng chung trong KCN, trong khi nhà đầu tư FDI lại muốn có mặt bằng, hạ tầng kỹ thuật ngay thì mới quyết định đầu tư. Sự giằng co, chờ đợi này đã khiến nhiều KCN có tỷ lệ lấp đầy thấp, bỏ lỡ cơ hội thu hút đầu tư.
Dự báo nhu cầu thu hút đầu tư phát triển các khu công nghiệp Việt Nam đến năm 2030
Theo quy hoạch sử dụng đất quốc gia đến năm 2030 đã được Quốc hội thông qua ngày 13/11/2021, diện tích đất phát triển các khu công nghiệp sẽ đạt khoảng 210.930 ha. Như vậy, từ nay đến năm 2030 sẽ có thêm khoảng 120.000 ha khu công nghiệp, trong đó diện tích đất công nghiệp cho thuê khoảng 80.000 ha.
Hiện đơn giá đền bù đất, giải phóng mặt bằng và định mức xây dựng hạ tầng khu công nghiệp đã được điều chỉnh tăng so với giai đoạn trước. Ước tính chi phí đầu tư cho một ha đất khu công nghiệp bình quân khoảng 600.000 USD/ha, Nhu cầu vốn đầu tư phát triển hạ tầng các khu công nghiệp đã được quy hoạch đến năm 2030, đang và sẽ triển khai xây dựng vào khoảng 72 tỷ USD.
Nhu cầu thu hút đầu tư vào các dự án sản xuất kinh doanh trong khu công nghiệp rất lớn
Nếu tính suất đầu tư 6,5 triệu USD/ha đất công nghiệp thì nhu cầu thu hút vốn đầu tư lấp đầy diện tích còn lại của các khu công nghiệp của Việt Nam đã được quy hoạch khoảng 600 - 650 tỷ USD.
Tổng vốn đầu tư phát triển hạ tầng khu công nghiệp và lấp đầy các khu công nghiệp khoảng 670 - 720 tỷ USD.
Ngoài ra, còn phải tính đến nhu cầu đầu tư, tái cấu trúc, chuyển đổi 293 khu công nghiệp hiện hữu thành các khu công nghiệp sinh thái để thực hiện mục tiêu tăng trưởng xanh theo cam kết của Chính phủ Việt Nam với cộng đồng quốc tế.
Trong một báo cáo gần đây, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đặt ra mục tiêu thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp, khu kinh tế đến năm 2030 như sau:
- Tổng vốn đầu tư đăng ký đạt khoảng 390 - 460 tỷ USD, trong đó vốn trong nước khoảng 110 - 130 tỷ USD, vốn FDI khoảng 280 - 330 tỷ USD;
- Tổng vốn đầu tư thực hiện đạt khoảng 300 - 370 tỷ USD, trong đó vốn trong nước đạt 60 - 80 tỷ USD, vốn FDI đạt 240 - 290 tỷ USD;
- Giải quyết việc làm cho khoảng 5-6 triệu lao động vào năm 2025, 7-8 triệu lao động vào năm 2030;
- Tỷ lệ các khu công nghiệp đã đi vào hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt 92% vào năm 2025 và 97-100% vào năm 2030.
Để huy động được nguồn vốn to lớn đầu tư vào các khu công nghiệp trong những năm tới đòi hỏi phải có những thay đổi căn bản trong việc khai thông các dòng vốn, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư tiếp cận thuận lợi các yếu tố sản xuất và đổi mới hoạt động xúc tiến đầu tư.
Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị khóa XII đã đề ra quan điểm chỉ đạo: “Chủ động thu hút, hợp tác đầu tư nước ngoài có chọn lọc, lấy chất lượng, hiệu quả, công nghệ và bảo vệ môi trường là tiêu chí đánh giá chủ yếu. Ưu tiên các dự án có công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công nghệ cao, công nghệ sạch, quản trị hiện đại, có giá trị gia tăng cao, có tác động lan toả, kết nối chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu”.
Liên chi hội Tài chính khu công nghiệp (FAIP) thuộc Hiệp hội Tư vấn tài chính Việt Nam sẽ là một nhân tố quan trọng đồng hành cũng các doanh nghiệp và các cơ quan quản lý trong việc tìm kiếm các giải pháp huy động nguồn lực nhằm thúc đẩy mạnh mẽ hơn sự phát triển các khu công nghiệp, khu kinh tế của Việt Nam theo đúng định hướng tăng trưởng xanh và bền vững.