Đã xử lý 380,2 nghìn tỷ đồng nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42

Theo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Nguyễn Thị Hồng, lũy kế từ ngày 15/8/2017 đến ngày 31/12/2021, toàn hệ thống tổ chức tín dụng đã xử lý được 380,2 nghìn tỷ đồng nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42, đạt trung bình khoảng 5,67 nghìn tỷ đồng/tháng, cao hơn nhiều so với kết quả xử lý nợ xấu tại thời điểm trước khi Nghị quyết số 42 có hiệu lực (trung bình giai đoạn 2012 – 2017, hệ thống các tổ chức tín dụng xử lý được khoảng 3,25 nghìn tỷ đồng/tháng).

Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng.  
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng.  

Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng đã gửi đến các đại biểu Quốc hội báo cáo một số nội dung liên quan đến nhóm vấn đề chất vấn tại Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XV, trong đó có việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về cơ cấu lại các tổ chức tín dụng, xử lý các ngân hàng thương mại yếu kém gắn với xử lý nợ xấu…

Liên quan đến việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về cơ cấu lại các tổ chức tín dụng, xử lý các ngân hàng thương mại yếu kém gắn với xử lý nợ xấu, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết, sau 4 năm thực hiện, các mục tiêu tại Đề án Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020 (ban hành theo Quyết định 1058/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ – Đề án 1058) đã đạt được những mục tiêu cơ bản.

Chỉnh sửa quy định về mua, bán trái phiếu doanh nghiệp

Đã xử lý 380,2 nghìn tỷ đồng nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42 - Ảnh 1

Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng cho biết, đến tháng 4/2022 tín dụng để đầu tư kinh doanh chứng khoán chiếm khoảng 0,5% tổng dư nợ nền kinh tế, dư nợ chủ yếu là ngắn hạn chiếm 98%, tập trung phần lớn vào dư nợ để đầu tư trái phiếu Chính phủ.

Cũng theo người đứng đầu ngành ngân hàng, tổng số dư đầu tư trái phiếu doanh nghiệp của các tổ chức tín dụng đến cuối tháng 4/2022 là 320,4 nghìn tỷ đồng, chiếm tỷ trọng nhỏ so với tổng dư nợ tín dụng 2,86%. Điều này cho thấy, hoạt động đầu tư trái phiếu doanh nghiệp của các tổ chức tín dụng vẫn được kiểm soát.

Theo Thống đốc Nguyễn Thị Hồng, các rủi ro từ thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp phần lớn phát sinh từ hoạt động của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán, các doanh nghiệp phát hành trái phiếu thuộc phạm vi quản lý của các bộ, ngành khác. Việc thanh tra giám sát hoạt động ngân hàng liên quan đến các lĩnh vực này chỉ là biện pháp quản lý rủi ro từ phía ngân hàng.

Do đó, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho rằng cần có những biện pháp toàn diện mang tính đồng bộ với sự phối hợp giữa các bộ, ngành có liên quan để làm trong sạch, lành mạnh hóa, củng cố thị trường chứng khoán cũng như thị trường trái phiếu doanh nghiệp.

Nhằm kiểm soát rủi ro liên quan đến chứng khoán và trái phiếu doanh nghiệp để bảo đảm an toàn hệ thống tổ chức tín dụng, Ngân hàng Nhà nước cho biết sẽ từng bước hoàn thiện khung khổ pháp lý với các quy định theo hướng chặt chẽ hơn.

Khi phát hành trái phiếu doanh nghiệp phải tuân thủ các quy định tại Luật Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn Luật Chứng khoán như đối với các doanh nghiệp khác; đồng thời, phải tuân thủ các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động theo quy định.

Bên cạnh đó, tăng cường thanh tra, kiểm tra giám sát chặt chẽ tình hình cấp tín dụng đối với lĩnh vực chứng khoán và đầu tư trái phiếu doanh nghiệp của các tổ chức tín dụng, kịp thời phát hiện những dấu hiệu tiềm ẩn rủi ro để có các biện pháp xử lý phù hợp.

Ngoài ra, chỉ đạo các tổ chức tín dụng rà soát, đánh giá lại hoạt động cấp tín dụng, tăng cường các biện pháp quản lý rủi ro, nâng cao hiệu quả kiểm tra, kiểm soát nội bộ đối với các hoạt động cấp tín dụng; trong đó có hoạt động cấp tín dụng đối với các Tập đoàn kinh tế tư nhân, Tập đoàn bất động sản lớn và người có liên quan để quản lý chặt chẽ, hạn chế phát sinh các rủi ro liên quan.

Thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục nghiên cứu chỉnh sửa các quy định về mua, bán trái phiếu doanh nghiệp của tổ chức tín dụng; nâng cao yêu cầu, chuẩn mực quản trị của tổ chức tín dụng khi tham gia vào thị trường trái phiếu doanh nghiệp nhằm góp phần bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng, hỗ trợ thị trường trái phiếu doanh nghiệp phát triển bền vững.

Dư nợ bất động sản tăng 10,19%

Ảnh minh họa.  
Ảnh minh họa.  

Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước, đến cuối tháng Tư, tổng dư nợ bất động sản của các tổ chức tín dụng là hơn 2,28 triệu tỷ đồng, tăng 10,19% so với cuối năm 2021. Mức này chiếm khoảng 20,44% tổng dư nợ với nền kinh tế và tỷ lệ nợ xấu của lĩnh vực này khoảng 1,62%.

Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho hay, Ngân hàng Nhà nước đánh giá đầu tư kinh doanh bất động sản là một trong các lĩnh vực rủi ro với hoạt động ngân hàng cần có các giải pháp kiểm soát.

Vì thế, ngành ngân hàng đang giám sát chặt tốc độ tăng trưởng dư nợ và chất lượng tín dụng với lĩnh vực chứng khoán, bất động sản để kịp thời phát hiện dấu hiệu tiềm ẩn rủi ro và có biện pháp xử lý phù hợp, đảm bảo an toàn hệ thống.

Theo Ngân hàng Nhà nước, thị trường bất động sản biến động mạnh, tình trạng thổi giá gây sốt ảo bất động sản, đấu giá đất với giá cao bất thường… ảnh hưởng đến cấp tín dụng, định giá tài sản đảm bảo của các tổ chức tín dụng.

Mặc dù tình hình cấp tín dụng cũng như chất lượng tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản vẫn đang được Ngân hàng Nhà nước kiểm soát ổn định nhưng để hạn chế tác động của thị trường bất động sản đối với kinh tế vĩ mô, tiền tệ cần có các giải pháo mang tính toàn diện đồng bộ với sự phối hợp của các bộ ngành có liên qua.

Hiện nay, theo Ngân hàng Nhà nước có khoảng 94% dư nợ bất động sản là cho vay trung, dài hạn, trong khi nguồn huy động của ngân hàng chủ yếu là ngắn hạn. Chênh lệch kỳ hạn và lãi suất giữa vốn, cho vay lĩnh vực này rủi ro rất lớn với các ngân hàng

Theo Ngân hàng Nhà nước, các hoạt động thanh tra, kiểm tra hồ sơ cấp tín dụng lĩnh vực bất động sản đang được cơ quan chuyên môn của Ngân hàng Nhà nước tiến hành. Việc này nhằm xử lý kịp thời những vi phạm trong cấp tín dụng, đưa ra khuyến nghị hạn chế rủi ro của các tổ chức tín dụng.

Thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước cho biết sẽ kiểm soát chặt tín dụng với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; trong đó, có đầu tư, kinh doanh bất động sản. Còn nhu cầu vay mua nhà ở xã hội, nhà ở cho công nhân hay nhà ở thương mại giá rẻ… thì khuyến khích.

Ngân hàng Nhà nước sẽ tăng thanh tra, giám sát chặt việc cấp tín dụng bất động sản để kịp có giải pháp đảm bảo an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng.

380,2 nghìn tỷ đồng nợ xấu xác định theo Nghị quyết 42 đã được xử lý 

Đã xử lý 380,2 nghìn tỷ đồng nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42 - Ảnh 2

Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho biết, nguy cơ nợ xấu tăng cao do ảnh hưởng của dịch bệnh; doanh nghiệp bị sụt giảm doanh thu, mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn. Ảnh minh họa.

Trên cơ sở tổng kết Đề án 1058, thực hiện Nghị quyết số 31/2021/QH15 về kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết, Ngân hàng Nhà nước đã xây dựng và đang trình cấp có thẩm quyền phê duyệt Đề án Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025.

Đối với vấn đề xử lý nợ xấu, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho biết, trong quá trình triển khai cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu, các tổ chức tín dụng đã tích cực nâng cao chất lượng tài sản, kiểm soát chất lượng tín dụng và xử lý nợ xấu, đặc biệt là nỗ lực tự xử lý nợ xấu bằng các biện pháp đôn đốc thu hồi nợ, sử dụng dự phòng rủi ro.

Từ năm 2021 đến nay, toàn hệ thống các tổ chức tín dụng đã xử lý được 216,7 nghìn tỷ đồng nợ xấu. Trong 4 tháng đầu 2022, tổng số dư nợ xấu được xử lý đạt 54,8 nghìn tỷ đồng, phần lớn là khách hàng trả nợ (23,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 43,0% tổng nợ xấu được xử lý); sử dụng dự phòng rủi ro (14,2 nghìn tỷ đồng, 25,9%) và bán nợ cho VAMC (11,4 nghìn tỷ đồng, 20,9%).

Lũy kế từ ngày 15/8/2017 đến ngày 31/12/2021, toàn hệ thống tổ chức tín dụng đã xử lý được 380,2 nghìn tỷ đồng nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42, đạt trung bình khoảng 5,67 nghìn tỷ đồng/tháng, cao hơn nhiều so với kết quả xử lý nợ xấu tại thời điểm trước khi Nghị quyết số 42 có hiệu lực (trung bình giai đoạn 2012 – 2017, hệ thống các tổ chức tín dụng xử lý được khoảng 3,25 nghìn tỷ đồng/tháng).

Xử lý nợ xấu nội bảng xác định theo Nghị quyết số 42 chủ yếu thông qua hình thức khách hàng trả nợ là 148 nghìn tỷ đồng, chiếm 38,9% tổng nợ xấu theo Nghị quyết số 42 đã xử lý (trung bình giai đoạn 2012-2017 chỉ khoảng 22,8%). Trong đó, riêng năm 2021, đã xử lý được 48,3 nghìn tỷ đồng.

Dù đạt được những kết quả tích cực trong quá trình xử lý nợ xấu, tuy nhiên với những tác động tiêu cực từ đại dịch Covid-19, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho biết, nguy cơ nợ xấu tăng cao do ảnh hưởng của dịch bệnh; doanh nghiệp bị sụt giảm doanh thu, mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn.

Cùng với đó là việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí và giữ nguyên nhóm nợ trước mắt là hết sức cần thiết nhằm giải quyết khó khăn cho doanh nghiệp và người dân nhưng cũng tiềm ẩn rủi ro nợ xấu gia tăng và rủi ro thanh khoản trong trung hạn…

Việc phát mại tài sản để xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng gặp nhiều khó khăn do thị trường thanh lý tài sản đảm bảo bị ảnh hưởng bởi nền kinh tế chưa phục hồi sau đại dịch. “Có những khách hàng lợi dụng bối cảnh dịch bệnh để trì hoãn trả nợ, giao tài sản đảm bảo cho các tổ chức tín dụng khiến tiến trình xử lý nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm càng gặp nhiều khó khăn”, Thống đốc cho biết thêm.

Minh Thành

Theo Kinh doanh & Phát triển